Chầu Đệ Tứ Khâm Sai

Chầu Bà đứng trong hàng thứ tư thuộc Tứ Phủ Chầu Bà. 

Chầu Đệ Tứ Khâm Sai vốn là Tiên Nữ Thiên Cung giáng sinh vào nhà họ Lí, với tên là Lí Thị Ngọc Ba. Quê hương bà ở làng Quý Hương, xã An Thái, huyện Vụ Bản, tỉnh Nam Định.

Sau này trở thành nữ tướng, quản cai ba quân. Với tính cách công minh, chính trực giúp Vua đánh Đông dẹp Bắc trừ giặc và được giao trấn giữ xứ Hà Trung, tỉnh Thanh Hóa. 

Trong quân lệnh, nếu có kẻ nào sai phạm sẽ "Tiền Trảm Hậu Tấu".

Thần Tích 

Xưa tại xã Thiên Lộc, huyện Thiên Lộc, phủ Đức Quang (Hoàng Diệu, Chương Mỹ, Hà Nội) có ông tù trưởng tên là Đặng Công Thành kết duyên cùng bà Lý Thị Ngọc. Ông Bà vốn là người tu nhân tích đức, luôn làm việc phúc cho nhân dân trong vùng. 

Ông Bà sinh được 5 người con trai. Sau khi chồng mất Bà ở  một mình nuôi dạy các con trưởng thành. Sống trong chế độ tàn bạo của quân nhà Hán, Bà sớm nuôi ý chí yêu nước và truyền dạy tấm lòng yêu nước cho các con. 

Khi các con đã khôn lớn, Mẹ Con Bà đã vận động nhân dân trong vùng xây dựng đồn binh, ngày đêm luyện tập quân sỹ, tích luỹ quân lương. Khi nghe tin Thái thú Tô Định đem quân về đàn áp Bà đã cùng các con lãnh đạo quân sỹ chiến đấu tiêu diệt hàng trăm quân giặc. Do không cân sức mẹ con bà đã phải lui quân về chùa Hương, khôi phục lại lực lượng.

Nghe tin Hai Bà Trưng dấy binh khởi nghĩa, Bà cùng các con cất quân về tụ nghĩa. Thấy Mẹ Con Bà có khí phách phi thường thì Hai Bà Trưng mừng lắm và phong cho bà là Lý Thị Ngọc Ba (tôn sùng lãnh tụ khởi nghĩa đứng đầu là Trưng Trắc, sau là Trưng Nhị và thứ ba là Lý Thị Ngọc Ba).

Sau khi tế cờ ở Hát Môn, Hai Bà Trưng xung trận, các đạo quân đều tả xung hữu đột, chống trận vang trời, quân Tô Định bị bại trận, nghĩa quân Hai bà thu phục được 65 thành.

Trưng Trắc xưng vua, Trưng Nhị được phong là Bình Khôi Công chúa và Bà Lý Thị Ngọc Ba được sắc phong là: 

"Chiêu Dung Công chúa"

Sau chiến thắng, bà được Hai Bà Trưng thưởng tiền và phong cho vùng đất Kim Cốc làm đất thang mộc.

Từ đó, Bà cùng các con tổ chức cho nhân dân trong vùng làm ăn xây dựng quê hương. Tương truyền, vào ngày 6 tháng chạp trời đất bỗng mây mù kéo đến, gió cuốn lên cả một vùng sông Đáy, người ta thấy mẹ con bà xuống thuyền. Khi sóng yên, gió lặng chờ mãi không thấy mẹ con bà trở về, biết Mẹ con bà đã hoá, Hai Bà Trưng vô cùng cảm kích nên lệnh cho dân trong vùng lập miếu, xây đình để thờ phụng Mẹ Con Bà.

Kể từ đó, để tưởng nhớ đến công lao của bà và các con nhân dân trong vùng lấy ngày mùng 6 tháng chạp hàng năm là ngày giỗ cùng là ngày hội của dân làng Kim Cốc.

Dưới thời Lê Trung Hưng, vua đã từng cử đại thần về đây làm lễ dâng hương để tưởng nhớ công lao của bà và các con.

Công lao của Bà như vậy nên khi trở về Thiên Đình, bà được giao quyền khâm sai Tứ Phủ, Tam Tòa, biên chép sổ Thiên Đình. Có khi chầu lại được coi là vị chầu bà giữ số Tứ Phủ, coi kho ngân xuyến, kề cận bên Mẫu Liễu Hạnh ở đất Phủ Dày. 

Đôi khi thanh nhàn, chầu truyền các tiên nàng dạo chơi khắp chốn, từ quê hương ra kinh thành, vân du khắp mọi nơi.

Theo Di Tích Và Đền Miếu Nữ Danh Nhân Việt Nam

Theo Thần Phả (1572)

Năm 39-40 sau công nguyên, Bà Lý Thị Ngọc Ba kết duyên cùng ông Đặng Công Thành ở Thiên Lộc, phủ Đức Quang. Sau khi có giặc ngoại xâm ông bà trở về làng Kim Cốc sinh sống, trong thời gan sinh sống ở làng Kim Cốc ông bà sinh được 5 người con là: Trình Duyên, Trình Xuân, Trình Lang, Trình Khiêm, Trình Tiến. Sau khi chồng mất, bà nuôi dậy các con khôn lớn, trưởng thành. 

Năm 16 tuổi các con của bà ai cũng có diện mạo phi thường, ứng đáp tinh thông. Ai ai cũng tiên đoán rằng sau này sẽ làm nên nghiệp lớn. Sau khi giặc Tô Định nước ta, làm cho dân ta khổ sở, vì thù nhà nợ nước. Bà và các con về tụ nghĩa với hai bà Trưng, cùng với hai bà diệt giặc Tô Định. 

Đất nước hòa bình, Bà Trưng xưng vua, phong cho Trưng Nhị là Bình Khôi công chúa, phong cho Bà Lý Thị Ngọc Ba là:

"Chiêu Dung công chúa"

Và phong cho các con của bà là tiền tả, hậu hữu đại tướng quân, ban cho vùng đất Kim Cốc là vùng đất thang bọc lúc sống hưởng thực ấp, lúc mất là nơi thờ tự. Thưởng cho bà 50 nén vàng kim, 6 bộ quần áo, cẩm bào...

Sáu mẹ con trở về hương ấp cũ thăm mộ chồng là Đặng Công Thành, bái yết tổ đường, hương hỏa cho tổ tiên. 

Sau đó Bà và các con trở về thôn Kim Cốc trên một chiếc thuyền. Trên đường về đến Đình Trung bỗng nhiên trời đất mịt mù, nổi sóng to gió lớn, gặp quân Mã Viện và chiến đấu với Mã Viện, 6 mẹ con đã hy sinh ở khúc sông quê hương.

Nguyễn Bích

Hầu Chầu Đệ Tứ Khâm Sai

Chầu Bà về đồng Ngự y áo màu vàng tà ngắn, khăn xếp màu vàng, đai màu tùy ý. Bà về lễ hương, đi kiếm & cờ lệnh (mồi, quạt,...), tấu sớ, làm việc quan, phán truyền, ban tài phát lộc.

Chầu Đệ Tứ Khâm Sai ít khi Ngự đồng, Bà hay giáng đồng khi ai về đền thờ Chầu Bà hoặc xứ đất Nam Định (kề cận Mẫu Liễu Hạnh).

Đền Thờ Chầu Đệ Tứ Khâm Sai

Đình Làng Kim Cốc

Chầu Đệ Tứ Khâm Sai được thờ ở 3 ngôi Đình Quán Thượng, Quán Trung, Quán Hạ nằm trên địa phận các thôn Cốc Thượng, Cốc Trung, Cốc Hạ (Hoàng Diệu, Chương Mỹ, Hà Nội). Đây là nơi chầu hóa và được nhân dân lập đình thờ từ xa xưa. Nhân dân để tỏ lòng biết ơn với bà và các con đã lập đình thờ và hàng năm vẫn mở hội và thờ cũng tỏ lòng biết ơn. 

Năm 1994, đình làng được Bộ văn hóa thông tin công nhận là di tích lịch sử văn hóa.

Ba ngôi Đình ở làng Kim Cốc chỉ thờ Chầu Đệ Tứ Khâm Sai cùng với 5 người con trai, từ Đức Thánh Cả đến Đức Thánh Ngũ (đình không phối thờ Tứ Phủ).

Đình Quán Thượng

Đình được xây dựng theo hướng Tây, xung quanh đình hiện nay không còn cây cối nhiều do bị chặt phá sau khi tu sửa.

Đình Cốc Thượng được xây dựng dựa trên truyền thuyết về Bà Lý Thị Ngọc Ba thời kỳ Hai Bà Trưng. Hiện nay, tại đình Cốc Thượng thờ ông Cả và ông Ba là Trình Duyên và Trình Lang.

Đình có cấu trúc chữ Đinh, Tam quan, sân đình, năm gian thờ chính, gian thờ vọng Lý Thị Ngọc Ba và một dãy nhà ngang.

Đình Quán Trung 

Đình thờ Lý Thị Ngọc Ba (thờ chính) và người con út của bà là là Trình Tiến, được xây dựng về hướng Đông. Xung quanh đình có rất nhiều cây cối, các cây gỗ đã được trồng cách đây vài chục năm.

Đình cốc Trung được xây dựng từ rất lâu, lần tu sửa mới nhất cách đây khoảng 13 năm. 

Tại đình có 20 đạo sắc phong, tuy nhiên sau này đã bị mất trộm và tìm lại được 5 đạo sắc phong. 

Không gian đình: sân đình, năm gian thờ chính điện, nhà thờ Lý Thị Ngọc Ba và một gian nhà nhỏ bên hữu mục.

Đình Quán Hạ 

Đình thờ vọng Lý Thị Ngọc Ba, ông hai và ông tư là Trình Xuân và Trình Khiêm. Được xây dựng theo hướng Tây Nam, trước mặt đình có một ao đình. Xung quanh đình có nhiều cây cối cổ thụ, đình có quang cảnh rộng rãi, thoáng mát.

Năm 1994, đình được Bộ văn hóa thông tin công nhận là di tích lịch sử văn hóa, trong đình có 29 đạo sắc phong.

Lễ Hội ba thôn Kim Cốc 

Lễ hội ba thôn Kim Cốc diễn ra trong ba ngày từ ngày 14/2 – 16/ 2 âm lịch. Ngày hội chính vào ngày 15/2 âm lịch. 

Đây là lễ hội diễn ra với quy mô lớn và có sự quan tâm của các ngành trong xã Hoàng Diệu. Hàng năm vào ngày 14/2 – 16/ 2 âm lịch ba làng lại cũng nhau tổ chức lễ hội để nhân dân các làng cung vui chơi trấy hội cũng như tăng tình đoàn kết cộng đồng làng xã. 

Cứ 3 năm các thôn lại tổ chức lễ hội lớn một lần, đinh làng thôn Cốc Trung là đình chính vì ở đây thờ đức Lý Thị Ngọc Ba. Nội dung của lễ hội như sau:

Ngày 14/2

  • Quá trình chuẩn bị lễ hội: Lễ hội bắt đầu được chuẩn bị trước đó vào tháng 12 âm lịch. Các thôn tự chuẩn bị những tư trang, vật liệu của mình.
  • Ngày 12 các thôn hoàn tất quá trình chuẩn bị cho lễ hội. Ngày 14 mở cửa đình. Các thôn chuẩn bị 3 chiếc kiệu, 2 kiệu 8 người khiêng, 1 kiệu 4 người khiêng, mỗi kiệu có hai người tổng cờ, một quản giáo, mỗi thôn có 4 người múa xin tiền, có thể hơn.
  • Người chủ tế là một người có tuổi trong làng, có gia đình đầy đủ đề huề mới được chọn. Hội ba làng chỉ có một chủ tế chính người thuộc thôn Cốc Trung là nơi thờ Lý Thị Ngọc Ba.
  • Lễ vật bao gồm: Lợn gà, cá chép, hoa quả, bánh kẹo.

Ngày 15/2

Các thôn rước kiệu diễu hành và tập trung tại Quán Trung. Đây là đình thờ bà Lý Thị Ngọc Ba và người con út là Ông Trình Tiến.

  • Khai mạc lễ hội, đánh trống khai hội.
  • Các cụ tế hội đồng. Nữ thôn Cốc Trung dâng hương.
  • Tổ chức giao lưu văn nghệ.

Ngày 16/2

  • Nữ cốc Trung dâng hương.
  • Nữ cốc Hạ dâng hương.
  • Các cụ tế Hội Đồng.
  • Các thôn rước kiệu về đình, lễ yên vị, kết thúc lễ hội.

Lễ hội diễn ra trong sự nô nức chào đón của mọi người dân trong làng cũng như nhân dân các vùng kế bên. Hội làng là nơi lưu giữ những nét văn hóa truyền thống của dân tộc cũng như thể hiện ước muốn một cuộc sống sung túc của con người.

Đền Cây Thị 

Tương truyền đây là nơi Chầu Đệ Tứ Khâm Sai dẹp giặc, tọa lạc tại Hà Trung, Thanh Hóa.

Đền có cung Đệ Nhất thờ Tam Tòa Thánh Mẫu, cung đệ nhị thờ Chầu Đệ Tứ Khâm Sai và Hội Đồng Thánh Chầu, cung đệ tam thờ Ngọc Hoàng Thượng Đế và Hội Đồng Quan Lớn. Bên ngoài có lầu thờ Thánh Cô Và Thánh Cậu. Bút tháp thể hiện quyền uy của Chầu. 

Năm 1996, Đền được Sở Văn Hóa Thông Tin Thanh Hóa công nhận là di tích cấp tỉnh.

Kết Luận

Chầu Đệ Tứ Khâm Sai kề cận bên Mẫu Liễu Hạnh với quyền quản cai ba quân, "tiền trảm hậu tấu", giáng sinh vào thời kỳ Hai Bà Trung, Vua Lê Trung Hưng bảo dân hộ quốc, được nhân dân lập đền thờ tưởng nhớ lưu truyền thiên cổ.

Phú Khánh
 

Blog này chia sẻ kiến thức về thực hành tín ngưỡng thờ mẫu tam phủ là di sản văn hoá phi vật thể được UNESCO công nhận năm 2016. Tín ngưỡng thờ Mẫu đi liền với dân tộc Việt Nam, truyền thống bao đời nay, đề cao chữ “Hiếu” và chữ “Kính”, đặc biệt thêm phần lễ nghĩa. Hiếu với Ông Bà Cha Mẹ, Kính là kính Thánh trọng Thầy.