Cô Ba Thuỷ Phủ/Cô Bơ Bông

Từ xưa đến nay hệ thống tứ phủ thờ Cô Bơ Thủy Thần và Cô Bơ Thác Hàn là chính. Còn các vùng miền thường thờ và hầu các cô địa phương bản cảnh cũng gọi là Cô Bơ nhưng thánh tích, quan điểm và lề lối hầu khác nhau như Cô Bơ Tây Hồ (Cô Bơ Hà Thành), Cô Bơ Tam Kỳ, Cô Bơ ngoại càn.

Bài viết này đề cập đến Cô Bơ Bông Hàn Sơn – Cô Bơ Nhân Thần

Thánh hiệu: Hàn Sơn Ba Bông Thủy Tinh Công Chúa Đệ Tam Thánh Cô

Sắc Phong: Thượng Đẳng Thần

Tương truyền, Cô Bơ Bông là con gái Vua Thủy Tề dưới Thủy Cung. Cũng có tài liệu ghi chép rằng, cô là con gái của Long Vương, hầu cận cho Đức Vương Mẫu. Cô giáng trần phù đời giúp dân.

Tiệc Cô Bơ Bông Hàn Sơn nhằm ngày 12/6 âm lịch.

Sự tích Cô Bơ Bông/Cô Ba Thuỷ Phủ

Tích thứ nhất

“Giở trang tích cũ Lê triều 

Có cô Bơ thoải mỹ miều thanh tân

Khăng khăng nắm giữ cơ trần

Phù Lê diệt Mạc bao lần xông pha

Đền Hàn Sơn chốn ấy quê nhà

Vì đời cô bẻ lái vượt qua thác ghềnh…”

Có tài liệu cho rằng, Cô Ba Thuỷ Phủ vốn là con Vua Thủy Tề, được phong là Thuỷ Cung Công Chúa. Sau này, Cô được giáng sinh vào thời Lê Trung Hưng. Trong cuộc kháng chiến chống quân Minh, có công giúp vua Lê Lợi trong những những ngày đầu khởi nghĩa. Sau này, sau khi cô hóa, cô còn linh ứng giúp vua lê trong cuộc diệt Mạc phù Lê.

Trong dân gian vẫn còn lưu truyền lại câu chuyện sau:  

Vào những năm đầu khởi nghĩa, quân ta (ý nói nghĩa quân do vua Lê Lợi chỉ huy) vẫn còn yếu về lực lượng, thường xuyên bị địch truy đuổi, một lần Lê Lợi bị địch đuổi đến ngã ba sông Thác Hàn ở Hà Trung thì gặp Cô Bơ đang tỉa ngô liền xin cô giúp đỡ, cô bảo người lấy quần áo nông dân mặc vào, còn áo bào thì đem vùi xuống dưới ruộng ngô rồi cùng cô xuống ruộng giả như đang tỉa ngô.

 Vừa lúc đó thì quân giặc kéo đến, chúng hỏi cô có thấy ai chạy qua đó không thì cô bảo rằng chỉ có cô và anh trai (do Lê Lợi đóng giả) đang tỉa ngô, thấy vậy quân giặc bỏ đi. Lê Lợi rất biết ơn cô, hẹn ngày sau đại thắng khải hoàn sẽ rước cô về Triều Đình phong công và phong cô làm phi tử. 

Sau đó cô cũng không quản gian nguy, bí mật chèo thuyền trên ngã ba sông, chở quân sĩ qua sông, có khi là chở cả quân nhu quân lương. Có thể nói trong kháng chiến chống Minh thì công lao của cô là không nhỏ. 

Đến ngày khúc hát khải hoàn cất lên thì vua Lê mới nhớ đến người thiếu nữ năm xưa ở đất Hà Trung, liền sai quân đến đón, nhưng đến nơi thì cô đã thác tự bao giờ, còn nghe các bô lão kể lại là ngày qua ngày cô đã một lòng đợi chờ, không chịu kết duyên cùng ai, cho đến khi thác hóa vẫn một lòng kiên trinh.

Người ta cho rằng, Cô Bơ được lệnh Vua Cha giáng trần để giúp vua, đến chí kì mãn hạn thì có xe loan lên đón rước cô về Thủy Cung. 

Sau đó cô hiển linh giúp dân chúng ở vùng ngã ba sông, độ cho thuyền bè qua lại được thuận buồm xuôi gió vậy nên cô còn có danh hiệu là Cô Bơ Bông (do tích cô giáng ở ngã ba sông) hay Cô Bơ Thác Hàn (theo tên gọi ở nơi quê nhà). Ai hữu sự đến kêu van cửa cô đều được như ý nên danh tiếng cô vang lừng khắp nơi nơi.

Tích thứ hai

“Hàn Sơn phong mục ba bông

Ấy nơi kiếm khách thoát vòng hiểm nguy

Qua cơn binh lửa bất kỳ

Ngọc chìm đáy nước, rước cô về ba bông”…

“Theo huyền sử, vào khoảng những năm đầu đại Hồng Đức triều vua Lê Thánh Tông (1460- 1497), thái úy Lê Thọ Vực sau khi lập được nhiều công trạng được vua phong chức “Bình Trương Quân Quốc Trọng Sự”, rồi đến chức “Sùng Quốc Công”, giao chấn giữ biên ải Ba Bông “Rừng thiêng nước độc”. 

Trong một trận giao tranh ác liệt kéo dài, không phân thắng bại mà tình thế rất nguy cấp. Đêm hôm ấy, danh tướng đã mơ thấy một người con gái mặc xiêm y trắng trên mây giáng xuống ngã Ba Bông, rẽ nước bước lên kiệu võng mà nói rằng: “Hãy lui quân về Nhị Sơn hạ thủy mà vây hãm, lên núi Thạch Bàn mà cầu Mẫu thoải tất ứng linh”

Theo lời, danh tướng dẫn quân xuôi về Chí Thủy (Thác Hàn Sơn bây giờ) dâng lễ cầu Mẫu rồi bố trí quân binh mai phục. Ứng báo của Mẫu cho kế phá giặc là lấp đá chặn dòng, lấy thủy triều dâng, làm nghi binh nhử giặc vượt qua bãi đá ngầm, khi nước thủy triều xuống thì tổng lực phản công, thuyền giặc rút chạy bị vấp vào bãi đá ngầm, lật nhào chìm đắm rất nhiều, quân mai phục đổ ra đánh úp, quân giặc chết nhiều vô kể và thất bại thảm hại, không còn dám quấy nhiễu nữa. (Dấu tích bãi đá ở Thác Hàn vẫn còn cho đến ngày nay).

“Thác Hàn Sơn lừng lẫy chiến công, nức tiếng muôn phương, oanh liệt một thời. Người con gái trong kiệu võng về báo mộng cho tướng quân Lê Thọ Vực đêm hôm ấy chính là Cô Ba Thuỷ Phủ đền Ba Bông. 

Còn người báo mộng hiến kế để tướng quân Lê Thọ Vực phá giặc là “Đệ Tam Thủy Tiên Thánh Mẫu Bạch Ngọc Hồ Trung Xích Thủy Tinh Xích Lân Long Nữ” hay còn gọi là Mẫu Đệ Tam, Mẫu Thoải, Mẫu Hàn Sơn đều là một. 

Để đáp lại ân đức của thánh thần, tướng quân Lê Thọ Vực tâu vua, vua Lê cho lập đền thờ Cô Ba Thuỷ Phủ ở bờ bãi bồi Ba Bông hiện nay. Đền thờ Đệ Tam Thánh Mẫu ở non cao Thạch Bàn thác Hàn Chí Thủy (về sau mới di dời xuống bên sông để nhân dân thuận lợi việc thăm viếng). Nhớ ơn công đức của tướng quân Lê Thọ Vực, nhân dân địa phương đã lập đền thờ ngay phía dưới trước đền Mẫu, được tách rời bởi sân Đại Bái (Từ đó đến nay vẫn giữ nguyên sự sắp xếp đó).

Tích thứ ba

“…Hoa đào còn đợi gió đông 

Ai mà hợp số khăn hồng cô trao

Ngọc lành còn đợi giá cao

Biết đâu quân tử mà trao duyên hài…”

Theo cuốn “Lê Triều Thần Phả Ngoại Biên” được lưu giữ tại Thái Miếu họ Lê có ghi chép về thần tích cô Bơ Bông tóm tắt như sau: 

Vào khoảng năm 1432, vua Lê Lợi có một đêm mộng thấy một nữ thủy thần báo mộng: “Ta là con gái Vua Thủy tề đây. Nhà vua còn nhớ là nợ ta một lời hẹn ước hay không? Bây giờ nghiệp đế vương đã thành sao chưa thấy trả”. 

Vua Lê Lợi giật mình tỉnh dậy mới nhớ lại chuyện cũ. Ngày xưa, vào những năm đầu khởi nghĩa, Lê Lợi bị địch đuổi đến ngã ba sông Thác Hàn ở Hà Trung thì gặp cô gái xinh đẹp, đoan trang đang tỉa ngô được cô cứu thoát.

Vua Lê Lợi để tỏ biết ơn cô, có nói với cô rằng: "Ta có một cháu trai tuấn tú, khôi ngô, văn võ song toàn. Sau này kháng chiến thành công ta sẽ gả cháu ta cho cô”. Người mà Lê Lợi nhắc đến chính là tướng quân Lê Khôi, cháu trai của Lê Lợi (Tướng Lê Khôi chính là một trong các hiện thân của Quan Hoàng Mười được thờ tại đền Củi ngày nay).

Cô gái ấy chính là hiện thân của Cô Ba Thuỷ Phủ. Tương truyền rằng, sau thắng lợi, Vua Lê Lợi có quay lại tìm cô gái nhưng không thấy. Như vậy lời hứa gả cô cho tướng Lê Khôi đã không được thực hiện. Sau giấc mơ, biết cô gái tỉa ngô nơi xưa chính là con gái Vua Thủy Tề, hiện thân lên cõi trần để giúp vua xây dựng nghiệp lớn, vua Lê Lợi đã phong cô là “Thượng Đằng Thần” và cho xây dựng đền Cô, để tưởng nhớ công lao của Cô.

Hầu Cô Bơ Bông/Cô Ba Thuỷ Phủ

Cô Ba Thuỷ Phủ rất hay ngự về đồng. Khi cô giáng vào ai, dù già hay trẻ thì sắc mặt đều trở nên hồng hào tươi tốt, đẹp đẽ lạ thường.

Khi cô ngự đồng, cô thường mặc áo trắng, đầu đội khăn đóng (khăn vành dây) có thắt lét trắng (có khi dùng thắt dải lưng hồng) rồi cô cầm đôi mái chèo, bẻ lái dạo chơi khắp nơi. Lúc chèo thuyền có khi có còn khoác thêm chiếc áo choàng trắng, trên khăn có cài ba nén hương nếu hầu vớt vong, bên hông có dắt tiền đò, rồi khi chèo thuyền xong, cô lại cầm dải lụa để đi đo gió đo nước đo mây.

Lúc cô an tọa người ta thường xin cô thuốc để trị bệnh, vậy nên Cô Bơ ngự về thường hay làm phép “thần phù” để ban thuốc chữa bệnh.

“Trừ yêu yêu hiện nguyên hình

Tàn nhang nước thải cứu sinh cho đồng

 Cô thời hóa phép thần thông

Tiếp lộc cho đồng cứu trợ bệnh nhân”

Đa phần các tích về Cô Ba Thuỷ Phủ/Cô Bơ Bông Hàn Sơn đều khá buồn, nên khi hầu Cô theo đúng lề lối các cụ đồng có chỉ dạy là không cười và các ghế hầu cô thường buồn. Còn hầu Cô Ba Thủy Thần và các cô ba bản cảnh gương mặt mỉm cười cũng không sao.

Chầu Văn Cô Ba Thuỷ Phủ (Bản I)

Hàn Sơn tú khí chung linh

Có Cô Ba Thoải giáng sinh phù đời

Hỡi ai được ngược về xuôi

Sông bao nhiêu nước ơn người bấy nhiêu

 Nhớ xưa tích cũ Lê triều,

Có cô Ba Thoải mĩ miều thanh xuân.

Khăng khăng lắm vững cơ trần,

Phò Lê diệt Mạc, bao lần xông pha

 Ba Bông chốn ấy quê nhà

Vì đời vững lái vượt qua thác ghềnh.

Thuyền nan rẽ sóng xung xinh,

Đón người vì nước vì tình non sông.

 Hàn Sơn, Phong Mục, Ba Bông,

Ấy nơi đón khách thoát dòng gian nguy

qua cơn binh lửa bất kỳ,

Ngọc chìm đáy nước cô về thuỷ cung

 Hoa đào còn đợi gió đông,

Xót người thục nữ, khăn hồng chưa trao.

Vẻ thanh giá ngọc càng cao,

Biết đâu quân tử mà trao duyên hài.

 Nương dâu một phút biến giời

Bụi trần rũ sạch ra người cung tiên

Thuyền bè xuôi ngược các miền

Nhớ ơn công đức lập đền khói nhang

Lê triều sắc tặng ra ban

Anh hùng nghiêu nữ trung can muôn đời

Dẫu rằng nước chảy hoa trôi

Sông kia dù cạn ơn người còn ghi

 Đêm thanh hiện giữa Thác Hàn

Tay tiên cố gảy cung đàn nam thương

Độ người cách trở viễn phương

Bắc cầu Chức Nữ, Ngưu lang đợi chờ

 Thuận dòng lá thắm đề thơ

Kẻ mong trực tiếp người chờ có khi

Ba Bông biến hiện đi về

Trăng thanh gió mát canh khuya bán hàng

 Nào là kẻ Bắc người Nam

Cầu sao được vậy về đền Ba Bông

Hài cườm nón trắng tiến dâng

Tôn nhang phụng sự dốc lòng không sai

Biết ra ban lộc tiếp tài

Buôn may bán đắt gặp người gặp duyên

Ai mà bất chúng đảo điên

Nắm bạc nhiều tiền cũng đổ ra sông

 Thương ai chấm lính nhận đồng

Hiếu trung trọn vẹn tam tòng đảm đang

Thương ai núi ngọc non vàng

Giận ai cô dể nhỡ nhàng bể khơi

 Giận thời uống nước cầm hơi

Khi mê khi tỉnh khi chơi khi cười

Bệnh làm tựa thể giếng khơi

Mênh mông lai láng biết trời phương nao

 Do sống sông chẳng đủ sào

dò bể bể rộng trời cao mấy tầng

Xem ra mới biết Sự lòng

Tìm về Thoải phủ Ba Bông, Thác Hàn

 Kim ngân, sớ điệp lập đàn

Dâng văn kiều thỉnh Thác Hàn Ba Bông

Thuyền rồng nón trắng tiến dâng

Khăn điều áo thắm tiền trăm, trầu trình

 Hình nhân lột trắng xinh xinh

Cứu cho lại được yên lành như chơi

Canh ba biến hiện ra người

Chiếc thoi bán nguyệt chèo chơi giữa dòng

 Thác hàn tới ngã Ba Bông

thuận buồm xuôi gió thong dong đi về

Bầu trăng túi gió đề huề

Khi chơi Phố Cát lúc về Đền Dâu

 Dù ai buôn bán đâu đâu

Mười hai tháng sáu rủ nhau mà về

Dù ai buôn bán trăm nghề

Mười hai tháng sáu thì về Ba Bông

 hài cườm nón trắng tiến dâng

Lâm râm khẩn nguyện chứng tấm lòng thành

Cô bơ công chúa hách danh

Mười hai cửa bể quyền hành trong tay

 Thủy Cung hội yến đêm ngày

Có lệnh mẫu gọi cô về ngay Thác Hàn.

Chầu Văn Cô Ba Thuỷ Phủ (Bản II)

Bốn phương bể lặng sống trong

Thảnh thơi lầu ngọc vua phong ấn vàng

Mẫu đương ngự long sàng giấc điệp

Phút mộng thần bỗng thấy chiêm bao

Hạt châu dâng trước ngai vàng

Rằng vâng sắc chỉ có Bơ nàng giáng sinh

Thượng tuần đỉnh tháng hai mồng tám

Bỗng trên trời nổi áng mây xanh

 Trung tuần đỉnh mười hai tháng sáu

Bỗng trên trời nổi dấu mây xanh

Thuỷ cung nhã nhạc tập tành

Rõ ràng cô Bơ Thoải giáng sinh phàm trần

 Mẫu trông thấy mười phần nhan sắc

Quả như là trong giấc chiêm bao

Phấn son tô điểm má đào

Anh hùng tài tử lối vào cung tiên

 Dẫu lá ngọc mình vàng chẳng quý

Mượn non nhân nước trí làm vui

Canh ba biến hiện lên người

Chiếc thoi bán nguyệt chèo bơi giữa dòng

 Thác Hàn tới ngã Ba bông

Thuận buồm xuôi gió thong dong đi về

Bầu trắng túi gió đề huề

Khi chơi Phố Cát lúc về Đền Dâu

 Dù ai buôn bán đâu đâu

Mười hai tháng sáu rủ nhau mà về

Dù ai buôn bán trăm nghề

Mười hai tháng sáu thì về Ba Bông

 Hài cườm nón trắng tiến dâng

Lâm râm khấn nguyện chứng tấm lòng thành

Cô bơ công chúa hách danh

Mười hai cửa bể quyền hành trong tay

 Thủy Cung hội yến đêm ngày

Có lệnh mẫu gọi cô về ngay Thác Hàn.

Chầu Văn Cô Ba Thuỷ Phủ (Bản III)

Nhang thơm một triện, trống điểm ba hồi

Đệ tử con, dâng bản văn mời

Dẫn sự tích thoải cung công chúa

Tiền duyên sinh ở thượng giới tiến cung

Biến hóa lên về Động Đình trung

Thác sinh xuống, con vua thoải tộc

Điểm trời giáng phúc, thoang thoảng đưa hương

Mãn nguyệt liền, hoa nở phi phương

 Da tựa tuyết ánh hưởng tươi tốt

Hoa cười ngọc thốt, nét ngọc đoan trang

Áo trắng hoa, chỉnh triện dung nhan

Tươi vẻ ngọc diện càng tươi sáng

 Tóc mây hương thoảng, da trắng lạ lùng

Điểm yên chi, má đỏ hồng hồng

Đôi mắt phượng lóng la lóng lánh

Tai đeo vàng cảnh chân dận hài hoa

 Điệu lưng ong dáng ngọc thướt tha

Chuỗi tràng mạng kim sa đài các

Mỗi ngày một khác, vẻ đẹp quá xa

Áo bạch bào phơn phớt hương đưa

 Áo bạch bào phơn phót hương đưa

Chiếc lồng cổ hay hây xạ nức

Động lòng quân tử trạnh dạ văn nhân

Nói về tài cô tài vẹn mười phân

 Nói về sắc mười phần nhan sắc

Áo hoa quần trắng, tóc phượng lưng ong

Chỉnh chiện thay nhan sắc não nùng

Vịnh thơ phú ngân nga đàn hát

 Phấn nhồi má hạc, sáp điểm mày ngài

Cô mặc áo màu phơn phớt lòng trai

Hài mỏ phượng khoan thai chân bước

Đàn cầm thánh thót dạo khúc năm cung

 Văng vẳng nghe tiếng nhạc lạ lùng

Điểm đót nhẹ giục lòng quân tử

Ba ngàn tiên nữ trăm ả theo hầu

Người vui mừng sắm sửa trầu cau

 Kẻ hầu hạ nâng khăn sửa túi

Éo le có nhiều lỗi cách điệu trăm phần

Người thanh tân nết cũng thanh tân

Người lịch sự thêm càng lịch sự

 Hằng Nga tiên tử cung quế Quảng Hàn

Vấn khăn chầu áo ngự điểm trang

Lược ngà chải, gương loan điểm đót

Khăn hồng chau chuốt chuỗi ngọc lưu ly

 Vẻ thướt tha tính nết nhu mỳ

So mọi vẻ cầm kỳ thi họa

Truyền chim nhắn cá trăm sự đinh ninh

Gẩy đàn ca tang tính tang tình

 Tiếng thánh thót giọng loan to nhỏ

Phỉ lòng trắng gió hội ngộ bạn tiến

Chốn Ba Bông cảnh sắc thiên nhiên

Non nọ nước ấy miền sơn thuỷ

 Ấy mong tri kỷ gió lạnh sương rơi

Khen trắng già sao khéo trêu ngươi

Tiên thượng giới, bạn người hạ giới

Hoa đào còn đợi, sao thấy gió đông

 Đợi rồi mong nào đã phi lòng

Riêng chỉ để tấc lòng bối rối

Gió trăng đã trải quý tộc thiết tha

Bỗng hay đâu non nước la đà

Cánh chim nhạn cao xa bay bổng.

Chầu Văn Cô Ba Thuỷ Phủ (Bản IV)

Trời Nam Hải mây lồng năm sắc,

Cõi Bắc Sơn vằng vặc trăng sao.

Bốn mùa hoa nở Đông Đào,

Có cô Bơ Thoải tiền triều hiển linh.

Tóc mườn mượt rung rinh bóng liễu,

Thẳng đường ngôi, thẳng chiếu trần gian.

Cong cong nét liễu nằm ngang,

Long lanh mắt phượng lồng gương đôi hình.

Vẻ xinh xinh da ngà điểm tuyết,

 Má hồng hồng vẻ nguyệt tô son .

Thanh xuân đương độ trăng tròn,

Mày ngang bán nguyệt dương đình nở hoa.

Áo mớ ba chân hài mỏ phương,

 Lược đồi mồi, nhẫn nhọc luồn tay.

Gương soi phấn điểm ai tày,

Cổ đeo chàng hạt, đôi tai hoãn vàng.

Vẻ dịu dàng, càng thêm linh hiển,

 Cô về đồng, phán chuyện xa xôi.

Vân du góc biển, chân trời

Thông mây cưỡi gió cứu người trần gian

Đêm đêm ngồi tựa hiên loan

 Tay tiên cô gảy cung đàn nam thương

Độ người cách trở viễn phương

Bắc cầu Chức Nữ Ngưu Lang đợi chờ

Thuận dòng là thắm đề thơ

 Kẻ mong trực tuyết người chờ cung phi

Thiên đình định nhật chí kỳ

Xe loan đón rước cô về Thủy cung

Hoa đào còn đợi gió đông

 Đợi người quân tử tơ hồng cô trao

Vẻ thanh giá ngọc càng cao

Biết đâu quân tử mà trao duyên hài

Nhớ lời mẫu gọi cô lên

 Một phen gắn bó hai phen hẹn hò

Dạy cô điều nhỏ tiếng to

Hương thơm ngat ngắt thơm tho lạ lùng

Cô thương lấy ghế cô cùng

 Bể sầu chưa cạn thủy cung chưa về

Cô vân ảm đạm chiều hè

Muôn dân thành thị thôn quê ơn người

Ai hùng nữ kiệt ai ơi

 Uy linh quét sạch bầu trời sáng trong

Chấm đồng cô lại thương đồng

Lỡ nào cô để cho đồng hàn vi

Không thương ắt cũng nên vì

 Lẽ nào cô lại chấp chi lạng vàng

(Xin cho đệ tử có khi lạng vàng)

Có công phật thánh gia ban

Mượn cầu ô thước bắc đường sông Ngân

Thương ai xa mấy cũng gần

Giận ai cách nửa bản chân cũng lìa

Đèn dầu thắp ngọn đèn khuya

Canh ba giờ tý cô về bảo ngay

 Tham sân tam nghiệp đọa đày

Gian tham xảo trá tháng ngày nhuộm nhơ

Trần gian có biết bao giờ

Mê mê sảng sảng trói vò chân tay

 Chiêm bao mộng hiện đêm ngày

Báo cho mà biết cô rày không tha

Phải mau sám hối Bơ tòa

Kim ngân sớ điệp lẵng hoa ba mầu

 Muốn sang thời phải bắc cầu

Muốn ăn quả ngọt bảo nhau vun trồng

Cô về thưởng lộc ban công

khuông phù đệ tử hanh thông đời đời

 Nhất tâm tin tưởng phật trời

Cao xanh đâu lỡ phụ người nhất tâm

Chữ rằng phật giáng lưu ân

Thần giáng lưu phúc thiên xuân thọ trường.

Chầu Văn Cô Ba Thuỷ Phủ (Bản V)

Dưới Động Đình hoa rơi lai láng

Cửa rèm châu thấp thoáng bóng trăng

Đời Lê Thái Tổ trung hưng

Anh linh ra sức Liễu Thăng hàng đầu

 Lệnh khoa màu theo quan sứ giả

Chọn ngày lành giáng hạ thần tôn

Ra vào ngọc điện kim môn

Danh thơm ngoài cõi tiếng đồn trong cung

 Đức Mẫu Vương có lòng quảng đại

Phong cô làm công chúa thoải cung

Ngọt ngào nổi dấu thiên hương

Phấn son chải chuốt áo vàng trai lơ

 Bậc thần nữ phong cô nhan sắc

Vẻ khuynh thành nhất mực trần gian

Hây hây má phấn tựa hương

Mặt hoa đầy đặn trán vuông chữ điền

 Vẻ thiên nhiên hình dung tầm thước

Gót hài hoa càng bước càng xinh

Đã nên quốc sắc khuynh thành

Mày ngang bán nguyệt rành rành tựa hoa

 Áo mớ ba chân hài mỏ phượng

Lược đồi mồi nhẫn ngọc luồn tay

Gương soi phấn điểm nào tày

Cổ đeo chàng mạng đôi tai hoãn vàng

 Nét dịu dàng lại càng vinh hiển

Giá ngự đồng phán chuyện xa xôi

Thông chi dưới bể trên trời

Lầu son phủ tía cô ngồi thảnh thơi

Lúc nhàn hạ lên chơi tỉnh Bắc

Kén được đồng nhan sắc nết na

Thiên triều bồng báo trải qua

Quỳnh Lôi thẳng tới Thổ Hà Vạn Vân

Trải phủ Thuận qua đền Dâu Khám

Tới đền Ghềnh xuống trạm Hoàng Mai

Có phen đi hán đi hài

Qua đền Cổ Vũ Hàng Gai Hàng Bè

 Trở ra về Hàng Buồm Phố Khách

Gặp Minh hồng khúc khích cười reo

Rong chơi Cầu Gỗ Hàng Đào

Trở về Hàng Bạc lại vào Phúc Tân

 Tháng hai hội đền Dầm đền Sở

Ninh xá từ Đại Lộ đức Ông

Nhởn nhơ đứng mũi thuyền rồng

Khuyên luyện thanh đồng chầu chực dâng hoa

 Lại trở ra cô về đền Sét

Xuống Bạch Mai bái yết chùa Vua

Dạo chơi Trưng Trắc Hai bà

Đức Viên Hoà Mã ,lại ra Tây Hồ

Có phen dạo khắp thành đô

Qua phủ Tây Hồ về tới Chân Tiên

Mời Cô trắc giáng bản đền

Phù hộ đệ tử thiên niên thọ trường.

Chầu Văn Cô Ba Thuỷ Phủ (Bản VI)

Hiển danh là bóng cô Bơ

Vào tâu ra rộng dưới tòa thủy cung

Đẹp bằng nghiêu thuấn nữ trung

So bề tài sắc tiên cung nào tày

 Lược ngà rẽ maí tóc mây

Nón kinh cô đội chân giày thêu hoa

Làn da trong ngọc trắng ngà

Mắt cô lóng lánh như là sao băng

 Mặt tròn đầy đặn khuôn trăng

Cánh tay tựa thể búp măng nõn nà

Tiên cô linh ứng hay là

Vốn xưa là khách hằng nga Quảng hàn

 Tính cô hay hát hay đàn

Ngũ huyền gảy khúc nam thương tính tình

Ngự chơi đâu một đền một phủ

Thiếu thức hầu sắm đủ dâng ngay

 Dâng cô quả nón đôi hài

Dâng gương dâng nược vòng tay quạt ngà

Ngự đồng cô mới phán ra

Cứu người dương thế gần xa tiếng đồn

 Bạn tiên giúp phép cô cùng

Cứu đâu khỏi đấy nức lòng trần gian

Đền thờ chậu sói chậu lan

Bốn bề phong cảnh chan chan ngát lừng

 Đồn vui nô nức tưng bừng

Lên đền cô Thoải xem bằng động tiên

Lầu chuông gác tía đôi bên

Trông ra đã thấy nhường liền đế đô

 Khen ai khéo họa địa đồ

Trước sông Vị Thủy bên hồ Trường giang

Vẻ xây lịch sự năm đàng

Hồ xây bán nguyệt gác toàn lục lăng

 Động đình khánh hội long vân

Quần tiên ca hát trước sân quỳnh đài

Cô chèo về đền Vua Bát Hải

Danh tiếng đồn cô Thoải ,Mẫu yêu

 Mặt tròn ba ngấn cổ kiêu

Môi son má phấn mĩ miều nết na

Thác Hàn ngự chốn ngã ba

Thuyền bè xuôi ngược phải nhờ đến cô

 Ra tay trị bệnh thần phù

Tàn nhang nước thải cô cho lại lành

Tiếng đồn cô Thoải anh linh

Mười hai cửa bể quyền hành trong tay

 Thoải cung hội yến đêm ngày

Có lệnh mẫu gọi cô về ngay Thác Hàn

Tiếng đồn cô Thoải khôn ngoan

Cứu sinh cũng lắm độ oan cũng nhiều

 Hoa thơm ai chẳng nâng niu

Ghế cô tốt đẹp (Cô)chắt chiu trong lòng

Dâng cô hoãn hột hoa vòng

Ai mà nói chạm thanh đồng (Cô) chẳng ưa

 Vốn khi xưa con Vua Thuỷ Tế

Đi chấm đồng dương thế mấy nơi

Trần gian khổ lắm cô ơi

Tu nhân ai dễ mấy người được nên

 Vì dân đã nặng lời nguyền

Bể sầu chưa cạn cõi tiên chưa về

Cô vân ảm đạm chiều hè

Mấy vầng bách điểu lâm le gọi bầy

 Lên trời đo gió đo mây

Xuống sông đo nước về đây ngự đồng

Có phen biến hoá thần thông

Thác Hàn Cô ngự thuyền rồng dạo chơi

 Tây Hồ thả chiếc thuyền trôi

Đỉnh đang trống điểm ba hồi lễ nghi

Có phen giá ngự đan trì

Thanh đồng đệ tử tâu quỳ dâng hoa

 Dâng cô áo thắm quạt ngà

Tấu lên bạch Mẫu bơ toà Thánh Tiên

Cô về chắc giáng bản đền

Khuông phù đệ tử thiên niên thọ trường.

Chầu Văn Thần Phù Chữa Bệnh 

Thần phù chỉ núi núi tan

Chỉ sông sông cạn chỉ ngàn ngàn bay

Thần phù gọi gió thét mây

Ấn thiêng quyết lĩnh ra tay khảo trừ

 Thần phù tay ấn có dư

Lĩnh của Phật tổ đem về giúp dân

Nước thời lấy ở Sông Ngân

Đem về mà uống sạch không thay là

 Có tà cô trục tà ra

Một là khí huyết hai là tà tinh

Trừ yêu yêu hiện nguyên hình

Tàn nhang nước thải cứu sinh cho đồng

 Cô thời hóa phép thần thông

Tiếp lộc cho đồng cứu trợ bệnh nhân

Chữ rằng thánh giáng lưu ân

Thánh cô lưu phúc thiên xuân thọ trường.

Chầu Văn Cô Ba Thuỷ Phủ Chèo Thuyền (Bản I)

Đêm qua chớp bể mưa dông

Nhác trông đã thấy thuyền rồng bơi xa

Phách nhất cô bẻ lái ra

Phách nhì giậm nhịp phách ba reo hò

Lên tiếng dô khoan

(khoan khoan dô khoan)

Phách rằng phách nhất

Cô bẻ lái ra

Phách nhì giậm nhịp

Phách ba reo hò

Cô bơ chèo đò

Chèo năm ba mái

Không sai mái nào

Chèo đi các lạch

Sang sông hải hà

Tới đầu Cờn Môn

Tứ vị vua bà

Cắm sào đỗ lại

Xướng ca ba ngày

Lệnh thánh cô truyền

Khắp hết đông tây

Hoàn sinh cải tử

Ngày ngày ai đang

Cô lại chèo sang

Chèo vô Quán Cháo

Tới tỉnh Ninh bình

Vô chùa Non Nước

Lễ phật tụng kinh

Chèo về đền chính

Nhận đồng chấm lính

Chèo tới Giáp Ba

Chèo khắp hải hà

Chèo về Vân Cát

Chuông kêu đàn hát

Lễ vật xướng ca

Tháng ba hội Mẫu

Tới ngã tư Gôi

Lễ Mẫu đã rồi

Tới cây đa bóng

Cô chèo cho chóng

Tới phủ công đồng

Cô đứng cô trông

Sang đền Lục vị

Cô ngồi cô nghỉ

Lên chùa Thiên Hương

Lễ phật mười phương

Sang đền Mẫu Thượng

Cô chèo trở xuống

về Phủ Đức Vua

Khắp cả đền chùa

Về chơi lăng mẫu

Mặt trời gác sậu

Băng thú hằng hà

Ban công tiếp lộc

Ngày nay xe giá

Về đồng chèo chơi

Rằng thuyền rằng thuyền

Tới bến cô ơi

Xin cô Lễ Mẫu

Bỏ cầu noi lên đền

Chầu Văn Cô Ba Thuỷ Phủ Chèo Thuyền (Bản II)

Thuyền lan rước Mẫu qua sông

Độ muôn dân trăm họ thoát vòng gian nan

Nổi tiếng hò khoan

(khoan khoan dô khoan)

Chân bước xuống thuyền)

(khoan khoan hò khoan)

Chèo mở lái ra

(khoan khoan dô khoan)

Hàn Thác chèo ra

Về Phủ Giáp Ba

Chèo về đền chính

Chèo ra Công Đồng

Chèo về Phủ Bóng

Cho tới đền Gôi

Tới nơi đền Lộ

Đền Dầm,đền Sở

Tới Ninh Xá từ

Đại lộ Đức Ông

Cô Bơ vui chơi

Đứng mũi thuyền rồng

Yêu mến thanh đồng

Lễ vật dâng hoa

Cô lại chèo ra

Về đền Cây Quế

Qua cửa Xích Đằng

Về đền Lảnh Giang

Bái yết Quan Đệ Tam

Rồi ngược dòng sông

Tới chùa Bồ Đề

Ghé qua đền Ghềnh

Chầu đức Mẫu Thoải

Lại đến đền Chầu

Chầu Đệ Tứ Khâm Sai

Qua cửa đền Rừng

Đền Rừng,đền Núi

Qua đền Cửa Sông

Yên Định,Thái Mỗ

Chèo về đền đây

Tới phủ tới đền

Đền xinh cảnh lịch

Bốn mùa phong quang

Thuyền rằng thuyền ai

Lơ lửng bên giang

Thuyền Cô Bơ Thoải

Rước Mẫu sang đền này

Tới bến cô ơi

Xin cô gác mái chèo bơi cô lên đền

Chầu Văn Cô Ba Thuỷ Phủ Chèo Thuyền (Bản III)

Nguyệt lạc ô đề sương mãn thiên

Giang phong ngư hỏa đối sầu mien

Cô Tô thành ngoại Hàn Sơn Tự

Dạ bán chung thanh đáo khách thuyền

Thuyền ai đỗ bến Cô Tô

Nửa đêm vang tiếng chuông chùa Hàn Sơn

Nổi tiếng hò khoan

(khoan khoan dô khoan)

Cô bước xuống thuyền

 (khoan khoan hò khoan)

Phách nhất cô ơi

 (khoan khoan dô khoan)

Phách nhì giậm nhịp

Phách ba cầm chèo

Ghềnh đá cheo leo

Non xanh nước biếc

Phong ba bão táp

Cầm vững tay chèo

Vượt bể chèo ra

Ở trên không trung

Vũ trụ ngân hà

Dưới chân mây bạc

Sáng lòa bóng gương

Cá lượn từng đàn

Trắng xanh đen đỏ

Tôm vàng nhởn nhơ

Gió mát trăng thanh

Bẻ lái khoan hò

Thuyền cô Bơ Thoải

Chèo đua về đền

Bắt lái sang ngang

Chèo sang bên đền

Tới bến cô ơi

Xin cô gác mái chèo bơi lên đền.

Chầu Văn Cô Ba Thuỷ Phủ Chèo Thuyền (Bản IV)

Đò ai cắm ở bến sông

Đò Cô chở các thanh đồng vân du

Nổi tiếng hò khoan

 (khoan khoan dô khoan)

Chân bước xuống thuyền)

(khoan khoan hò khoan)

Phách nhất cô ơi

(khoan khoan dô khoan)

Phách nhì giậm nhịp

Phách ba cầm chèo

Xin cô mở lái ra

Hàn Thác chèo ra

Qua đền Phong Mục

Bên kia Cô Tám Chè

Núi cùng khe

Nhấp nhô cá bạc

Dăm ba mái nữa

Đỏ điều rực rỡ

Vận áo trắng hoa

Miệng lại cười duyên

Dâng câu vạn tuế

Mười hai cửa bể

Cô đã vân du

Kìa một mình Cô

Lên thác xuống ghềnh

Khắp hết mọi nơi

Cô đà vân du

Góc bể chân trời

Thông mây cưỡi gió

Cứu người trần gian

Bắt lái chèo về

Tới bản đền đây

Tới bến cô ơi

Xin cô gác mái chèo bơi lên đền.

Chầu Văn Cô Ba Tây Hồ

Ngàn xưa lưu dấu Tiên Rồng

Trời Nam sinh thánh Thăng Long hóa thần

Đinh Lê truyền đến Lý Trần

Bao cơn binh cách bao lần phong ba

 Kinh kỳ nức tiếng phồn hoa

Anh linh hiển hách Cô Ba Tây Hồ

Bốn mùa lan, huệ nở đua

Hương sen ngào ngạt lý ngư về chầu

 Trăng thanh giãi cỏ bên lầu

Sáng soi khắp hết long lâu thủy đình

Tây Hồ sóng gợn lung linh

Một bầu sơn thủy cảnh thanh dị kỳ

 Dấu tiên cổ tích còn ghi

Có cô Ba Thoải đi về sớm khuya

Phong tư đức hạnh khác vời

Mẫu ban coi sóc trong ngoài vào ra

 Tây Hồ chính quán quê nhà

Cảnh tiên một thú cầm ca,nhạc thiều

Xuân về quả đón,hoa chào

Tay cô vun xới cho đào nở hoa

 Bích đào tiến đến vua cha

Đào bạch cô tiến Tam Tòa Mẫu Vương

Hoa lan,hoa huệ,hải đường

Mẫu đơn, thược dược, đỗ quyên, hoa hồng

 Chậu quất cô tiến công đồng

Nhân dân thiện tín mắt trông tỏ tường

Quất xanh hoa trắng tỏa hương

Quất chín sắc thắm ánh vàng lung linh

Quất vàng bán khắp thị thành

Ơn cô giáo hóa dân lành từ xưa

Vườn hoa,cây cảnh cổ đồ

Nuôi tằm dệt lụa tiên cô mở đường

 Chuông chùa trầm bổng vang vang

Vẳng nghe cô gọi trâu vàng tới nơi

Dấy rằng chuông trống ba hồi

Mẹ con phải kíp tới nơi Cô truyền

 Đêm thanh quỳ trước cửa đền

Nghe lệnh cô truyền nổi gió Nam phong

Mát lòng dân khỏi bức nồng

Qua cơn bĩ cực thoát vòng u mê

 Dù ai buôn bán trăm nghề

Mười ba tháng tám nhớ về phủ đây

Thương người dạ thảo lòng ngay

Tài ba lỗi lạc sớm cày chiều thơ

 Thương người rắc đậu trồng ngô

Xót người cùng khổ bốn mùa ăn đong

Giận ai bạc chảy tiền ròng

Công lao một chút, chỉ hòng tạc bia

 Lộc bình tán tán xưa kia

Kiệu hoa, võng lọng, nay về nơi dâu?

Hồ còn rộng, nước còn sâu

Cải tà quy chính trước sau mấy là

Giận phường giảo trá điêu ngoa

Thiệt thòi một chút nói ra phũ phàng

Lời cô chỉ nói rõ ràng

Qua cơn ác mộng, lên đường Thuấn Nghiêu

Ngâm vào chèo đò:

Chiều chiều gió thổi hiu hiu

Trùng trùng sóng bạc sáo diều vi vu

Trăng thanh bẻ lái khoan hò

Bạn tiên rẽ sóng chèo đua trước đền

Cây si bóng mát kề bên

Bạn tiên hội họp trước đền hò ca

Người gần cho chí người xa

Rủ nhau lên Phủ tháng ba hội đền

Anh hùng thanh lịch thuyền quyên

Tâm hương phụng sự một niềm không sai

Thương ai hữu đức hữu tài

Ngư phường nông nghiệp đẹp người đẹp duyên

Tiền nhân vị liễu oan khiên

Tham sân tam nghiệp liên miên tháng ngày

Nhỡn quan thế hệ không hay

Minh đồ hoạ lạc tháng ngày nhuộm nhơ

Tâm chung hoả liệt không cờ

Mê mê sảng sảng trói vò chân tay

Chiêm bao mộng hiện đêm ngày

Báo cho mà biết cô rầy không dung

Thỉnh tu lễ sám tội căn

Thỉnh thánh hội đồng Cô Thoải ngự chơi

Thành tâm tiến bản văn mời

Tây Hồ Cô Thoải ngự vui tức thì

Văn phụ lục tiếp vần

Xá bắc:

Tục truyền Lãng Bạc xưa kia

Có loài cửu vĩ hồ ly hại người

Mẫu truyền cô kíp vâng lời

Thần thông pháp vũ dẹp loài tà tinh

Trừ yêu yêu hiện nguyên hình

Rõ ràng cửu vĩ hồ tinh khác thường

Dẹp loài yêu quái đã tan

Dạy dân xe chỉ kết làm thủ công

Chỉ ngũ sắc kết làm vòng

Nhớ tết Đoan ngọ đề phòng yêu ma

Nhân dân từ trẻ chí già

Kết quả cầu quả khế quạt hoa năm màu

Kết nhện kết túi tầng sâu

Khánh vòng quả lựu rượu bầu túi thơ

Chỉ ngũ sắc trói yêu tà

Ấy là tục lệ Cô Ba Tây Hồ

Hương thơm hoa ngát lễ nghi

Kim ngân sớ điệp tiến về các cung

Lễ riêng một chiếc thuyền rồng

Lẵng hoa cô quẩy thung dung xa gần

Tây Hồ, Tứ Tổng, Nhật Tân

Ruộng xanh hoa ngát hương xuân trẻ già

Bốn phương thiện tín gần xa

Rủ nhau hội Mẫu tháng ba tìm về

Nghe văn cảnh tỉnh sớm khuya

Tiếng chuông phụ Mẫu vọng về quê hương

Căn Cô Bơ Bông/Cô Ba Thuỷ Phủ

Quan điểm chung cho rằng những người có căn cô Bơ (Các Cô Bơ) thường:

  • Ngoại hình nhẹ nhàng thanh thoát, giàu lòng trắc ẩn, thương người, nhiều cảm xúc, ánh mắt hay nhìn xa xăm, đôi khi đượm buồn, hay hờn tủi nhưng sắc thái lại luôn tươi vui.
  • Những người có căn Cô Bơ thường có tài năng khéo léo trong lĩnh vực buôn bán, giao tiếp, y học chữa bệnh…
  • Ngoài ra, những người có căn Cô Bơ thường được phú cho nhan sắc hơn người, từ nước da trắng, đôi môi đỏ hồng cho tới tính cách nhẹ nhàng, tâm hồn tinh tế.
  • Đặc biệt đường tình duyên thường lận đận, trắc trở.

Chính bởi vậy mà có quan điểm cho rằng: Căn cô Bơ đừng mơ hạnh phúc??? Ai sát căn cô Bơ là sẽ lận đận, khổ sở, trắc trở tình duyên và vất vả gian truân…

Thực tế là ngược lại

Người có căn cô Bơ Bông số ít là duyên kiếp trước, kiếp này nguyện tu tập về phụng sự hầu hạ cửa Thánh.

Còn phần nhiều chính bởi do thấy người đó có nhân duyên cửa Thánh, hiện kiếp số phận lại nhiều trắc trở, lận đận, khổ sở … mà được Cô Bơ Bông chấp lính nhận đồng, cưu mang khuông phù để an yên bản mệnh, cuộc sống hiện đời được tốt đẹp lên, đỡ phần nào khổ cực. (Người có căn Cô Ba Thuỷ Phủ/Cô Bơ Bông như vậy là Căn duyên hiện kiếp chứ không giống những người căn Cô Ba Thủy Thần (đa phần là Căn Thừa Nguyện lộn lại).

Bởi Cô Ba Thuỷ Phủ là Nhân Thần, thấu hiểu nỗi gian truân, lận đận đặc biệt là đường tình duyên (xem các tích Cô Bơ Bông Hàn Sơn) và đã chứng Thánh, nên cô rất thương những người lận đận cơ cực, trắc trở cuộc sống và duyên nợ.

Những người căn Cô Bơ Bông hoặc được Thánh Cô chấp lính nhận đồng là điều vô cùng đáng quý chứ đừng nói Căn Cô Bơ không tốt.

Chớ suốt ngày than thân trách phận, rồi vô minh trách căn số Cô… hẩm hiu. Nên nhớ bất cứ điều gì xảy ra cũng là do nhân quả, do phúc nghiệp… của chính bản thân, gia đình và gia tiên mình.

Sau khi ra đồng, được cô thương khuông phù đỡ an bản mệnh, cố gắng suy nghĩ tốt, biết nắm biết buông, nỗ lực tu tập theo đường chính đạo thì sẽ có cuộc sống tốt đẹp an nhàn hơn người.

Đền thờ Cô Bơ Bông/Cô Ba Thuỷ Phủ

Đền Cô Bơ Bông (đền chính) nay thuộc xã Hà Sơn, huyện Hà Trung, tỉnh Thanh Hóa. Vì theo quan niệm nguyên xưa Cô Bơ Bông hầu cận Mẫu Thoải, lại theo sự tích nơi quê nhà cô là ở đất Hà Trung, Thanh Hóa, ngã ba Bông bến đò Lèn nên đền cô được lập ở đó, gần đền Mẫu Thác Hàn (chính là Mẫu Thoải), Trước kia, vào những năm 1940, giặc Nhật đã tàn phá đền cô Bơ. Sau này, ngôi đền đã được tôn tạo rất khang trang.

Ngoài ra cô Bơ cũng được thờ vọng tại nhiều đền thờ trong cả nước và tại ban tứ phủ Thánh cô trong các đền thờ Tứ Phủ

Phú Khánh
 

Blog này chia sẻ kiến thức về thực hành tín ngưỡng thờ mẫu tam phủ là di sản văn hoá phi vật thể được UNESCO công nhận năm 2016. Tín ngưỡng thờ Mẫu đi liền với dân tộc Việt Nam, truyền thống bao đời nay, đề cao chữ “Hiếu” và chữ “Kính”, đặc biệt thêm phần lễ nghĩa. Hiếu với Ông Bà Cha Mẹ, Kính là kính Thánh trọng Thầy.