Cô Chín Sòng Sơn

Cô Chín Sòng Sơn đứng hàng thứ chín trong Tứ Phủ Thánh Cô, vị Thánh Cô quyền uy với nhiều quyền phép thiêng biến hóa. Sự tích Cô Chín Sòng Sơn nổi tiếng khắp xứ Thanh Hoá.

Cô Chín được xem là người kề cận, hầu bên Mẫu Liễu Hạnh, có tích cho rằng Cô hầu bên Mẫu Thoải hoặc Chầu Cửu.

Cô Chín linh thiêng cứu người, giúp đời nên người dân ở khắp muôn nơi phụng thờ. Theo đó, tại mỗi nơi thờ phụng cô, người ta lại kính nể gọi cô bằng cái tên khác nhau. Những tên gọi như Cô Chín Suối Rồng tại Hải Phòng, Cô Chín Thượng Thiên tại Bắc Giang đều là cách gọi khác của Cô Chín Sòng Sơn. Tại những đền phủ này, người ta đều áp dụng hình thức thờ vọng cô, mong cầu cô ban phước lành, bình an tới cho muôn dân.

Hiện chưa thấy tài liệu nào nói về việc Cô Chín giáng sinh vào một nhân vật nào trên trần gian. Như vậy, thân thế của Cô nghiêng về phía thiên thần.

Thanh hoa sơn thuỷ hữu tình

Có cô Chín Giếng anh linh khác thường

Sinh thời hầu cận Mẫu Vương

Dọn hàng quán mát âm dương núi Sòng”

Ngày 9/9 âm lịch là chính tiệc Cô Chín Sòng Sơn.

Sự tích Cô Chín Sòng Sơn

Tích thứ nhất

Cô là Tiên Cô tài phép theo hầu Mẫu Liễu Hạnh. Cô có tài xem bói, 1000 quẻ Cô bói ra thì không sai một quẻ nào. Cô có phép thần thông quảng đại. Ai mà phạm tội, Cô về tâu với Thiên Đình cho thu giam hồn phách, rồi Cô hành cho dở điên dở dại. Khi Cô dạo chơi bốn phương khắp ngả trời Nam, về đến đất Thanh Hóa thấy cảnh lạ vô biên. Cô hài lòng, bèn hội họp thần nữ năm ba bạn cát, lấy gỗ cây sung làm nhà, mắc võng ở cây si.

Có truyền thuyết nói rằng Cô Chín là con gái thứ 9 của Ngọc Hoàng Thượng Đế. Vì đánh vỡ chén ngọc mà Cô giáng trần, bán nước ở cồng đền Ba Dọi. Ban đầu những kẻ phàm trần không tin, nghĩ Cô là yêu quái nên quở trách, đánh đuối và tìm cách diệt trừ. Vì tức giận nên Cô về tâu với thiên đình, thu giam hồn phách họ, hành cho điên khùng.

Trong những năm chinh chiến loạn lạc, Cô đã phò vua giúp nước bằng cách tiên đoán trận mạc. Với công lao to lớn, vua đã truyền dân lập đền thờ Cô. Trước đền lúc đó có đến 9 miệng giếng tự nhiên. Vì thế có câu: "Cô Chín quyền cai chín giếng”Vậy nên Cô Chín còn gọi với tên Cô Chín Giếng. Nghe đâu các giếng này đã bị lấp khi trải qua nhiều thời kỳ.

Tích thứ hai

Ông Hà Văn Châu, thủ đền lâu năm, kể rằng: Tôi không nhớ chính xác vào năm nào, chỉ nhớ đó là một năm hạn hán, khi nước sinh hoạt khan hiếm, người dân quanh vùng đã đi tìm nguồn nước đào giếng. Cứ 4-5 người chung nhau đào, họ tìm đến suối Sòng khoan giếng. Đào liên tục 8 miệng giếng vẫn chưa tìm thấy một giọt nước nào.

Kiên trì đặt mũi khoan tới miệng giếng thứ chín, khoan sâu được 8 – 9 m thì bất ngờ xuất hiện một mạch nước lớn đùn lên ào ào. Cả làng được cứu sống nhờ mạch nước này và cũng từ đây xuất hiện 9 miệng giếng thiêng.

Sau đó, có những đoàn ở Hà Nội về thăm dò, đo đạc, nhưng không có kết quả chính xác về độ sâu của giếng. Càng xuống sâu nước càng lạnh. Trực quan địa hình cùng quá trình lặn xuống lòng sâu, họ kết luận: Dưới giếng có một dòng sông ngầm, dự đoán chảy từ dãy núi Tam Điệp (Ninh Bình) ra cửa biển Thần Phù (Nga Sơn).

Ở đây còn có câu chuyện, rằng vào mùa mưa, nước suối dâng cao, sau khi khấn vái trên đền xong xuôi, các con nhang có đem lộc thả xuống suối, trong đó có quả bưởi vàng và những xấp tiền xu 200 đồng đã được đánh dấu theo bản hội. Chẳng biết có phép nhiệm màu nào mà chỉ mấy ngày sau, quả bưởi đó đã có mặt ở một giếng khác thuộc địa phận xã Hà Thanh. Cũng trong tháng đó những đồng xu 200 được khắc chữ phía sau đã được cư dân vùng biển Nga Sơn ở cách đó rất xa tìm thấy trong quá trình đi biển. Những câu chuyện kỳ lạ đó vẫn còn truyền cho tới ngày nay mà chưa có một lời lý giải. Có lẽ dòng sông ngầm dưới giếng (như các nhà khoa học đã phán đoán).

Hầu Cô Chín Sòng Sơn

Cô Chín Sòng Sơn rất hay ngự đồng. Khi Cô giáng đồng, ngự áo hồng, múa quạt tiến Mẫu và đôi khi Cô cũng múa cờ tiến Vua, cũng có khi thêu hoa dệt lụa, rồi lại múa cánh tiên. 

Những người có căn Cô Chín thường có khả năng xem bói, chữa bệnh. Ai cầu đảo cô đều sắm sửa lễ vật: Nón đỏ, hài hoa, vòng hồng hay võng đào.

Chầu Văn Cô Chín Sòng Sơn (bản I)

Nguyên xưa giá ngự đền Sòng

 Quyền cai Cửu Tỉnh hầu trong bơ tòa

Cây sung cô lấy làm nhà

 Cây doi làm cửa trông ra ngoài đền

Thanh Hoa cảnh lạ vô biên

 Đời vua Minh Mệnh lập đền thờ ngay

 Mẫu thời ngự chín tầng mây

 Cô nay mắc võng ngự rầy cây sung

Âm dương có mạch giao thông

Chín mươi chín giếng công đồng chảy ra

 Đền thờ đường cái vô qua

 Lối vào Thanh Hóa lối ra Ninh Bình

 Đồi ngang sơn thủy hữu tình

 Đôi bên Long hổ đua tranh chầu vào

 Vốn xưa cô ngự Thiên Tào

 Bởi sa chén ngọc cung cao đế đình

 Cho nên cô mới giáng sinh

 Tuổi vừa tám chín gia hình còn thơ

Trần gian uốn lưỡi đong đưa

 Ai mà không biết tính cô khó chiều

 Có khi cô ngự cây kiêu

Ai đi đến đấy ra điều đơn sai

 Cô về tâu mẫu thiên đài

 Thu giam hồn phách bỏ ngoài giang tân

 Làm cho mê mẩn tâm thần

 Làm cho chuyển động tấm thân mơ màng

 Biết ra phải đến kêu van

 Cô tha thời được bình an lại lành

 Tiên cô có phép tàng hình

 Sai năm quan tướng lôi đình ở trong

 Phép cô lục trí thần thông

 Cô ảnh đầu đồng xem bói được minh

 Ai mà lễ bái tâm thành

 Việc gì cô cũng chứng minh phán truyền

 Dù ai tiến cúng về đền

 Mùi hương thấu đến tự nhiên cô về

 Hương xông thơm ngát bốn bề

 Ngự đồng truyền phán việc gì chẳng sai

 Ai mà xem bói cầu tài

 Cùng trong gia sự chẳng sai chút nào

 Âm dương phần mộ thấp cao

 Cô nay soi xét việc nào chẳng sai

Phép cô linh ứng đại tài

 Tam tòa lục bộ khâm sai động đình

 Dù ai đổi số nhân sinh

 Tuy rằng chữ thập cải hình chữ thiên

 Phúc cho vô lượng vô biên

 Sai năm quan tướng về miền cây thông

 Có khi cô hiện thung dung

 Dạo chơi khắp hết đàng trong đàng ngoài

 Khi cô ngự cảnh bồng lai

 Gỉa người thục nữ trêu người tình nhân

 Cát đằng duyên hợp tấn tần

 Dong chơi khắp hết hải thần ngao du

Khi về cực lạc tây cù

 Phủ Nghĩa cho đến Đông phù giáp ba

 Phủ Giầy chốn ấy bao xa

 Lên tâu xuống rộng vào ra vẹn mười

 Có khi biến hiện ra người

 Thảnh thơi cô lại ngự đồi cây thông

 Đàng ngoài cho chí đàng trong

 Ai mà biết đến Cô Chín độ cho

 Làm tôi đệ tử thánh cô

 Dâng văn sự tích thỉnh cô giúp đền.

Chầu Văn Cô Chín Sòng Sơn (bản II)

Gió thu thoảng ngát hương lan

Trăng soi chín giếng nước vàng long lanh

 Thanh hoa sơn thuỷ hữu tình

Có cô Chín Giếng anh linh khác thường

Xinh thời hầu cận Mẫu Vương

Dọn hàng quán mát âm dương núi Sòng

Cầm đàn luyện khúc năm cung

Gọi hồn non nước dục lòng thế nhân

Cung thương gió Sở mây Tần

Hồ cầm vọng nguyệt hoa xuân mỉm cươi

Sự lòng cố quốc đầy vơi

Sông thu nước chảy thuyền xuôi ngược dòng

Xế chiều sương tản tuyết đông

Cóng hồ tạm biệt tạ lòng quân vương

Líu lo chim én gọi đàn

Ử ơ tiếng vượn gọi con canh trường

Sáng trời gà gáy tan sương

Còn vang khúc nhạc canh trường đầy vơi

Tuy rằng theo Mẫu về trời

Anh linh xuất hiện núi đồi Thanh Hoa

Cây sung cô lấy làm nhà

Cây lan cổ thụ lắm hoa nhiều cành

Đền cô sơn thuỷ hữu tình

Đôi bên long hổ đua tranh chầu vào

Minh đường tụ thuỷ hợp giao

Cây si cô mắc võng đào hoạ ca

Tháng hai nô nức gần xa

Rước vào Ba Dội rước ra đền Sòng

Âm dương đôi mạch giao thông

Chín mươi chín giếng công đồng chảy ra

Giữa đường chính sứ người qua

Trăng thanh gió mát hiện ra bán hàng

Ninh Bình,Thanh Hoá,Nghệ An

Kẻ vô cầu tự rưóc chân nhang về thờ

Lòng người như nuớc mùa thu

Thấm nhuần cây cỏ bốn mùa tốt xanh

Tay tiên tỉa lá vin cành

Hoa tươi quả chín để dành đời sau

Chân cô lả bước tới đâu

Mở đường nhân nghĩa bắc cầu vinh hoa

Nón buồm vai quẩy lẵng hoa

Khi vào xứ Huế khi ra Bắc thành

Bóng hồng đủng đỉnh non xanh

Trăng in đáy nước long lanh suối vàng

Gót tiên dong duổi dặm ngàn

Hoa phô sắc tím lục lam da trời

Lòng trần đục lắm ai ơi

Vô duyên hồ dễ mấy người gặp tiên

Vì dân đã nặng lời nguyền

Bể sầu chưa cạn cõi tiên chưa về

 Cô vân ảm đạm chiều hè

Muôn dân thành thị thôn quê ơn người

 Anh hùng nữ kiệt ai ơi

Linh uy quét sạch bầu trời sáng trong

 Hồng dương rực rỡ tây đông

Trăng sao vằng vặc bể trong muôn đời

Thắp hương khấn nguyện Phật Trời

Nôm ra kính chúc mấy lời văn ca

Cô về trắc giáng điện toà

Đem nước chín giếng ban ra mọi người

Lòng trần đã rửa sạch rồi

Tu nhân tích đức muôn đời hiển vinh.

Chầu Văn Cô Chín Sòng Sơn (bản III)

Chim kêu vượn hót trên ngàn

Dưới khe cá bạc cá vàng chầu lên

Tam thai ngũ nhạc án tiền

Trăng thanh gió mát quần tiên hội đồng

Khi vui ngự chiếc xe rồng

Lúc buồn gảy khúc đàn thông, tỳ bà

Ngự đồng yến vũ, oanh ca

Khoan thai cô lại về tòa sơn trang

Rong chơi mười tám cửa ngàn

Tam thập lục động sơn trang phép mầu

Trở về Quán Cháo, Đền Dâu

Danh lam cổ tích một bầu cảnh tiên

Cửu Tỉnh, Mẫu đã ban truyền

Quyền cô chấp chính khắp miền trần gian

Dầu ai hữu sự kêu van

Cô thương những kẻ trần phàm u mê

Những khi khuya sớm đi về

Thập phương tiến bái cô xóa đi lỗi lầm

Ai mà ngạo ngược cường hung

Coi thường Cô Chín đền Sòng không thiêng

Hành cho điên đảo, đảo điên

Trăm muôn thứ bệnh liên miên tháng ngày

Giận ai cô đã ra tay

Làm cho đau ốm hẹn ngày mạng vong

Làm cho bệnh ốp vào trong

Cơm ăn chẳng đựoc khiến lòng đầy vơi

Khi lạnh lúc toát mồ hôi

Đập đầu lạy đất bái trời mà kêu

Tìm cô cầu đảo bái kiều

Cô về phán bảo những điều nhỏ to

Cô thương chỉ bảo dặn dò

Nước tiên chín giếng cô cho lại lành

Tiếng đồn Cô Chín anh linh

Trong Nam, ngoài Bắc phụng  thờ

Tiên dù lánh hạc về trời

Hồn thiêng vẫn ở lòng người thế gian.

Chầu Văn Cô Chín Sòng Sơn (bản IV)

Bóng gương nga soi miền Nam Việt

Gặp bạn hiền ai biết rằng ai

Có tiên thần nữ đan đài

Quản cai chín giếng nơi ngoài Sòng Sơn

So bề tài sắc ai hơn

Hoa ghen mặt ngọc liễu hờn mày châu

Cung tiên giá ngự long lâu

Sửa sang xiêm áo về chầu Mẫu Vương

Cảnh tiên thú vị lạ nhường

Cô đã dạo khắp bốn phương xa gần

Phép Cô giá vũ đằng vân

Cứu người ngoài Bắc hiển thần cõi nam

Dấu thiêng Cô để trong am

Cây si đánh dấu ngàn năm thành chồi

Nền son liệt truyện hẳn hoi

Ngũ hành bát quái luân hồi Đồ Thư

Phép Cô biến hiện thần cơ

Nhờ ơn Quốc Mẫu đã dư thế thần

Tiên Cô cứu trợ người trần

Ai hay nhủ bảo, biết thân giữ gìn

Vâng lời Mẫu nhủ Cô lên

Nhờ tay tạo hóa được lên Châu Trần

Muôn nhờ gặp chốn thanh tân

Nhường xa bạn học nhường gần bạn tiên

Ba trăng đã ước mười nguyền

Miếu thờ Cô lập thạch bàn cây si

Sòng Sơn rừng suối đi về

Một màu hương lửa bốn mùa gió trăng

Thanh tân lịch sự nào bằng

Lấy cây làm tán lấy trăng làm đèn

Thiếu cổ thụ cam toàn

Một màu hương khói bốn bên suối rừng 

Đàn thông phách trúc vang lừng

Chim dâng quả cúng vượn dâng hoa hầu

Tiếng đồn khắp hết đâu đâu

Kẻ xin phép lạ người cầu bùa thiêng

Nén hương bát nước khấn nguyền

Lễ kêu Cô Chín trình lên bơ tòa

Tàn nhang nước thải ban ra

Uống vào bệnh đỡ ngay đà bình yên

Xin cô trắc giáng điện tiền

Cây si giếng nước là nền dấu xưa

Đồng Cô hương khói phụng thờ

Mấy người đã dễ được nhờ lộc vinh

Trần gian lễ bạc tâm thành

Cô lên thượng tấu thiên đình thánh cung

Tai trừ lộc hưởng thiên chung

Bát thiên thụ hưởng thiên xuân thọ trường.

Chầu Văn Cô Chín Sòng Sơn Múa Quạt

Quạt tầu ba sáu nan xương

Cô cầm tới quạt cô thương thanh đồng

Quạt xanh quạt trắng quạt hồng

Quạt trắng dưới thoải quạt hồng trên thiên

Đôi tay múa lượn cánh tiên

Lầu lầu thu nguyệt thượng thiên trên trời

Cánh tiên bay bổng tuyệt vời

Nhác trông tựa thể giáng người tiên nga

Quạt cho gió lộng sơn hà

Quạt cho nam nữ trẻ già vui tươi

Quạt cho chim hót hoa cười

Quạt cho mát rượi lòng người thế gian

Quạt cho sóng lặng bể an

Trăng sao sáng tỏ xua tan mây mờ

Trần gian căn số phải thờ

Chưa ra hầu hạ còn cơ còn đầy

Tưởng rằng thẹn gió e mây

Ai ngờ phút nhớ phút khuây chẳng ngờ

Khi vui múa quạt múa cờ

Múa quạt tiến mẫu múa cờ tiến vua.

 

Văn dệt gấm thêu hoa

Đền thờ khung cửi bằng vàng

Thoi ngà nạm ngọc thừa nhàn thêu hoa

Về đồng xe chỉ luồn sa

Chỉ thêu ánh tuyết kim sa ánh vàng

Mũi kim đưa xuống nhẹ nhàng

Đưa lên khéo léo đảm đang thay là

Cô thêu thỏ lặn ác tà

Thêu non thêu nước thêu hoa thêu người

Tiều phu kiếm củi trên đồi

Sóng cồn mặt nước cá bơi giữa dòng

Cô thêu mấy áng mây hồng

Thêu nàng chức nữ ngự cung Quảng Hàn

Tay tiên dệt lụa thêu loan

Cát hồng tiên nữ tòa vàng vua cha.

Đền thờ 

Đền Chín Giếng (Đền Cô Chín Sòng Sơn) ở phường Bắc Sơn, thị xã Bỉm Sơn, Thanh Hoá, là nơi thờ chính của Cô Chín Sòng Sơn và Mẫu Cửu, Chầu Cửu. Trong cung cấm là nơi thờ Mẫu Cửu, Chầu Cửu có một cung riêng ở bên tay trái của cung Cô Chín. Vì vậy, đền nơi đây sau khi lễ Cô Chín, chúng ta nên lễ Chầu Cửu và Mẫu Cửu.

Đền Chín Giếng cách đền Sòng Sơn (thờ chính Mẫu Liễu Hạnh) 950m.

Phú Khánh
 

Blog này chia sẻ kiến thức về thực hành tín ngưỡng thờ mẫu tam phủ là di sản văn hoá phi vật thể được UNESCO công nhận năm 2016. Tín ngưỡng thờ Mẫu đi liền với dân tộc Việt Nam, truyền thống bao đời nay, đề cao chữ “Hiếu” và chữ “Kính”, đặc biệt thêm phần lễ nghĩa. Hiếu với Ông Bà Cha Mẹ, Kính là kính Thánh trọng Thầy.