Ông Hoàng Bơ
“Trên Thượng Thiên mây bay năm vẻ
Dưới Thủy Tề nước rẽ làm đôi
Ông Bơ lịch sự tốt tươi
Biến trên mặt nước cưỡi đôi chép vàng”
Tiệc chính ông Hoàng Bơ nhằm ngày 26/6 hàng năm.
Riêng lễ hội tại Đền Vạn Ngang – Đồ Sơn – Hải Phòng là 3 ngày từ ngày 6 -8/3 (Xuất phát bởi tích Ngài hiển linh đàm đạo với nho sinh sỹ tử tại đây vào 7/3 âm lịch).
Sự tích Ông Hoàng Bơ
Tương truyền Ông Hoàng Bơ hay Ông Bơ Thoải là con vua Cha Bát Hải Động Đình, đứng hàng thứ ba trong Mười Ông Hoàng, ngự cõi Thuỷ Phủ.
Khi rảnh rỗi, ông thường rong chơi khắp chốn trên thuyền rồng. Nhân thấy cảnh dân chúng còn nghèo khổ lầm than, ông đã nhận lệnh Vua Cha khâm sai cõi phàm trần, mở hội Phúc Duyên, giáng phúc cho dân buôn bán làm ăn thuận buồm xuôi gió, người có học đỗ đạt thành tài, xã hội bình an yên ấm.
Ông Hoàng Bơ tích xưa hiển linh vùng sông Biển và kèm vào đó là sự đàm đạo với các nho sinh sỹ tử. Theo các cụ đồng cổ kể lại, Ngài chủ yếu hiển linh theo chân Việt tộc âm phù hộ quốc xưa nên nơi có các đền Thoải đều phối thờ ngài.
Đền Cần Hải trước thờ Thủy thần là Ông Hoàng Bơ (thờ chính). Sau này giặc dã đền bị phá và ông Hoàng Chín (con vua Hùng) về đây đóng quân trấn giữ cho xây lại. Sau khi Ông Chín tạ thế thì được nhân dân trong vùng tôn thờ trong đền.
Đến thời Nam Tống, có vị thái tử con vua nước này, tên Triệu Bính (Tống Khắc Bính). Sau khi bị nhà Bắc Tống đánh bại và thái tử Triệu Bính thác, lính của Ngài đã dong thuyền ra biển Đông và định cư tại Cờn (Cần Hải), Quỳnh Lưu, Nghệ An.
Dân quân ở đó đồng ý cho ngụ lại, Binh lính cùng dân chúng bản địa dựng lại ngôi đền Cờn và phối hương linh vị Thái tử nhà Tống vào thờ tại đền thờ cùng ông Hoàng Bơ, ông Hoàng Chín. Đồng thời dựng cả đền Tứ Vị Vua Bà (thờ 3 mẹ con Mẫu ở Lạch Cờn và Hoàng thái tử Tống Đế Bính) ở trên núi, trên nền đền cũ của Ông Bơ tại Cửa Cờn. (Tứ Vị Vua Bà bao gồm cả Thái Tử Triệu Bính cũng được nhân dân thờ ở nhiều nơi từ thời Trần đến nay).
Sau này tam sao thất bản nhiều người đánh đồng vị Thái Tử này với ông Hoàng Bơ (tuy nhiên điển tích này cần được xem xét).
Hầu Ông Hoàng Bơ
Quan Hoàng Bơ là một trong những vị khâm sai nhận lệnh Vua Mẫu đi bắt lính nhận đồng. Khi ngự đồng, Ngài ngự áo trắng có thêu hình rồng uốn lượn thành chữ Thọ, thắt đai vàng, đầu đội khăn xếp thắt lét trắng, cài kim lệch trắng màu bạc.
Ngài ngự về tấu hương, khai quang rồi một tay cầm mái chèo, một tay cầm quạt thong thả dạo chơi. Cũng có khi Ông cầm đôi hèo, thể hiện hình ảnh đang cưỡi ngựa ngao du sơn thủy.
Sau khi làm lễ khai quang, Ngài ngự tọa, hiến tửu, nghe thơ và ban phát tài lộc cho bách gia.
Trên điện ngọc rồng bay năm sắc
Dưới Động Đình ghềnh thác nguy nga
Mênh mông một dải giang hà
Ầm ầm sóng vỗ xa xa bạc đầu
Loài thuỷ tộc đâu đâu tìm đến
Vượt vũ môn xuất hiện thần long
Biến lên mặt nước lạ lùng
Hoàng Bơ Thoải chân dung khác thường
Ông Bơ Thoải đường đường dong mạo
Mặt nhường gương tiết tháo oai phong
Thanh xuân một đấng anh hùng
Toàn tài văn võ lầu thông mọi đường
Sáng tựa gương trần ai chẳng bụi
Bầu rượu tiên thơ túi xênh xang
Khăn thêu áo trắng đai vàng
Võ hài chân dận vai mang đôi hèo
Cưỡi ngựa bạch vai đeo cung tiễn
Tay kiếm trường trước điện bước ra
Thương dân trên cõi Sa Bà
Lòng tham chìm đắm đức hoà khó lên
Trước bệ ngọc Hoàng liền tấu đối
Lên cõi trần mở hội phúc duyên
Khâm sai Hoàng kíp băng miền
Phong lôi một trận nổi lên cõi phàm
Bạn tiên nữ xếp hàng rong ruổi
Cá kình nghê thẳng lối tiễn đưa
Sai quân dưỡng trực lên bờ
Trống dong cờ mở thực là nghiêm trang
Sắp hai hàng càng vàng tán tía
Kiệu vàng son nghi vệ bát âm
Tuần vương nghỉ gót dừng chân
Hoạ thơ Lý Đỗ ca ngâm đọ cờ
Tiệc xong lại chèo đua bẻ lái
Truyền chèo về Bát Hải dong chơi
Quỳnh Côi,Phượng Dực mấy nơi
Sông Thao,sông Cả qua chơi Lục Đầu
Chơi khắp hết sông Cầu sông Mã
Truyền ba quân các ngả thi đua
Lên rừng lấy gỗ chò hoa
Đem về dâng tiến vua cha Động Đình
Ngự Bắc kinh,Thăng Long quý địa
Phủ Tây Hồ tú khí danh lam
Dừng thuyền bái yết Mẫu Vương
Mẫu ban chấp chính cầm quyền vào ra
Cho coi sóc các toà cung nội
Riêng một bầu phượng ruổi loan ca
Đông Cuông, Tuần Quán các tòa
Cây cao bóng mát rườm rà tốt tươi
Đàn cá lội rõ mười không khác
Kết thành lầu dàn dặt đêm thanh
Trăng soi đáy nước thuỷ đình
Có thoi Hoàng thoải xinh xinh khác thường
Thoi sáng ánh kim cương lấp lánh
Biết bao người mến cảnh say sưa
Trách ai vô ý không ngờ
Qua không bái yết thực là khó van
Ai biết phép gia ban tài lộc
Độ cho người văn học thông minh
Hoàng về trắc giáng điện đình
Khuông phù đệ tử khang ninh thọ trường.
Vỉa:
Thuyền lan rước Mẫu qua sông
Độ cho trăm họ thoát vòng gian nan
Chèo đò:
Nổi tiếng hò khoan
Chèo đua bẻ lái
Quan Hoàng rước Vua
Rước Mẫu tuần hành
Long, xà, ngư, miết
Cá kình theo sau
Tam giang, tứ hải
Tứ hải, cửu châu
Lý ngư vọng nguyệt
Đưa nhau tìm về
Lệnh truyền dâng nước
Dâng nước tức thì
Lên rừng tiến gỗ
đem về tiến Vua
Lấy gỗ xoan đào
Cùng gỗ trò hoa
Tiến Đức Vua cha
Vua cha Động Đình
Nổi hiệu lôi oanh
Vượt cửa Vũ môn
Qua ba vực sóng
Hiện hình Bạch Long
Chèo về đền đây
Tới bến đã rồi
Gác mái chèo bơi
Rước Ông lên đền.
Tác giả: Phúc Yên
Lau lách xạc xào, gió hiu hiu thổi
Nửa một khoang đầy, sưởi ấm hồn thơ
Tay nâng bầu rượu ngồi tựa mạn đò
Bút tiên nghiên ngọc hồn thơ lai láng
Thơ hỏi cung Hằng, lúc mờ lúc sáng
Trăng nhớ thương ai khi khuyết khi đầy
Hay còn vương vấn chi đây
Rượu tiên chưa cạn chia tay sao đành
Khoan nhặt mái chèo, cảnh đền bỗng tới
Trăng in hồ nước, soi mái tam quan
Tiếng mõ vang vang, rũ sạch lòng phàm
Trăng treo đầu núi, vào chùa niệm phật
Nam mô A di đà phật
Như lắng tai nghe, chuông chùa thức tỉnh
Hoàng vẫy tay gọi, các thanh đồng ơi
Bản đền đây, Hoàng đã tới nơi rồi
Lúc trở ra về, sao thưa trăng khuất
Vì mến thương hoàng, trăng ẩn nấp bên non
Thoi Ông đi trở ánh trăng tròn
Lúc về trăng lặn chỉ còn bầu rượu túi thơ
Tay nâng bầu rượu, cạn tự bao giờ
Mỉm cười hoàng hẹn, mai chờ trăng lên.
Động Đình tây hồ thu nguyệt huy
Tiêu Tương giang bắc táo hồng phi
Túy khách mãn thuyền ca Bạch trữ
Bất tri sương lộ nhập thu y
Mực in vách phấn đề thơ
Hồ Tây sóng nước bây giờ là đây
Gió trăng chở một thuyền đầy
Của kho vô tận, biết ngày nào vơi.
Phú nói:
Thuyền nan nhè nhẹ một con chèo
Thuyền Hoàng Bơ Thoải dạo Hồ Tây
Sóng dập dờn sắc nước trời mây
Bát ngát nhẽ ghẹo người du lãm
Yên thuỷ mang mang vô hạn cảm
Ngư long tịch tịch thục đồng tâm
Rượu lưng bầu mong mỏi bạn tri âm
Xuân vắng vẻ biết cùng ai ngâm họa
Gió hây hây không nức mùi nhang xạ
Nhác trông lên vách phấn đã đề bài
Thơ ai, xin họa một vài.
Hát nói:
Bến Tầm Dương canh khuya đưa khách
Quạnh hơi thu lau lách đìu hiu
Người xuống ngựa khách dừng
Chén quỳnh mong cạn nhớ chiều trúc ti
Say những luống ngại chi chia rẽ
Nước mênh mang đượm vẻ gương trong
Đàn ai nghe vẳng bên sông
Chủ quên trở lại khách không vội về
Lần tìm sẽ hỏi ai đàn tá
Dừng dây tơ nấn ná làm thinh
Dời thuyền ghé lại bên ghềnh
Khêu đèn thêm rượu còn dành tiệc vui
Mời mọc mãi thấy người bỡ ngỡ
Tay ôm đàn che nử mặt hoa
Vặn đàn mấy tiếng dạo qua
Dẫu chưa nên khúc tình đà thoảng hay
Nghe não nuột mấy dây buồn bực
Dường than niềm tấm tức bấy lâu
Mày chau tay gảy khúc sầu
Dãi bày hết nỗi trước sau muôn vàn
Ngón buông bắt khoan khoan dìu dặt
Trước Nghê thường sau thoắt Lục yêu
Dây to dường đổ mưa rào
Nỉ non dây nhỏ khác nào chuyện riêng
Tiếng cao thấp lựa chen lần gây
Mâm ngọc đâu bỗng nảy hạt châu
Trong hoa oanh ríu rít nhau
Nước tuôn róc rách chảy mau xuống ghềnh
Nước suối lạnh dây mành ngừng đứt
Ngừng đứt nên phút bặt tiếng tơ
Ôm sầu mang giận ngẩn ngơ
Tiếng tơ lặng ngắt bây giờ càng hay
Bình bạc vỡ tuôn đầy dòng nước
Ngựa sắt giong xô xát tiếng đao
Cung đàn trọn khúc thanh tao
Tiếng buông xé lụa lụa vào bốn dây
Thuyền mấy lá đông tây lạnh ngắt
Một vầng trăng trong vắt lòng sông
Ngậm ngùi đàn bát xếp xong
Áo xiêm khép nép hầu mong giải lời
Rằng xưa vốn là người kẻ chợ
Cồn Hà Mộ trước ở lân la
Học đàn từ thuở mười ba
Giáo phường đệ nhất chỉ đà chép tên
Gã thiện tài so phen từng khúc
Ả Thu Nương ghen lúc điểm tô
Ngũ Lăng chàng trẻ ganh đua
Biết bao thê thảm chuốc mua tiếng đàn
Vành lược bạc gãy tan dịp gõ
Bức quần hồng hoen ố rượu rơi
Năm năm lần lữa vui cười
Mải trăng hoa chẳng đoái hoài xuân thu
Tiếng chi đó nghe liền sớm tối
Cuốc kêu sầu vượn hót véo von
Hoa xuân nở nguyệt thu tròn
Lần lần tay chuốc chén son ngập ngừng
Há chẳng có ca rừng địch nội
Giọng líu lo buồn nỗi khó nghe
Tỳ bà nghe dạo canh khuya
Dường như tiên nhạc gần kề bên tai
Chọt tỉnh giấc gót hài xa lắc
Hội long vân dìu dặt còn đâu
Màn đem buông xuống một màu
Mơ mơ tỉnh tỉnh thấy đâu mơ màng.