Ông Hoàng Chín

Ông Hoàng Chín là con Vua Cha Bát Hải Động Đình, đứng hàng thứ chín trong Mười Ông Hoàng.

“Cửu trùng ngọc bệ chí tôn 

Khâm sai Hoàng Chín Cờn Môn giáng trần 

Trên chín bệ cao thâm võng cực

Dưới bách thần mộ đức kinh luân”

Tiệc Ông Hoàng Chín Cờn Môn ngày 9/9 ÂL

Sự tích Ông Hoàng Chín

Tích dân gian thứ nhất

Ông Hoàng Chín Cờn Môn là một nhân vật có thật, sống dưới triều nhà Lý ở vùng đất Nghệ An. Sinh thời ông là một người theo học đạo thánh hiền với mong ước ra làm quan để trị nước giúp đời.

Ông là người có tài, học rộng hiểu nhiều, nhưng lại không gặp may mắn trên đường khoa cử. Sau nhiều lần liên tiếp trượt bảng vàng, ông chán nản và quyết định xuống tóc đi tu.

Ông lập miếu tu hành tại vùng cửa biển. Ngoài việc chuyên tâm vào tu hành, ông thường xuyên cứu vớt những người chết đuối trôi dạt về vùng cửa biển này và chôn cất họ một cách tử tế.

“Bể Nam thơm mãi muôn đời 

Cửa Cờn rộng mở cứu người hữu nhân”

Khi ông Chín mất, người dân trong vùng đã lập đền thờ ông tại chính nơi mà ông đã tu hành và cứu vớt những người xấu số lương thiện. Về sau, nhiều người dân đi biển qua vùng này còn kể lại cho nhau nghe nhiều câu chuyện khác nhau về việc ông hiển linh và cứu giúp những người đi biển gặp hoạn nạn.

Vào thời nhà Tống, khi quân Tống suy yếu trước quân Nguyên, Thái hậu Dương Quý Phi cùng các công chúa chạy ra biển, chợt bão nổi bị chết đuối, xác trôi dạt vào cửa Cờn cũng đã được vớt lên chôn cất cẩn thận.

Người dân thờ 3 mẹ con Mẫu ở lạch Cờn và Hoàng đế Tống Đế Bính ở trên đỉnh núi, đền thờ ông Hoàng Chín ở ngoài biển, tất cả đều được phối hương linh vị ở đền Cờn. Nhân dân gọi ông là Ông Chín đền Cờn.

Tích dân gian thứ hai

Lưu truyền rằng lúc sinh thời, ông sống ở Nghệ An, lúc bấy giờ là thời Lý và đi thi nhiều lần nhưng không đỗ đạt. Sau đó, ông xuống tóc và ra cửa biển Cờn lập am miếu tu trì cứu vớt người đi biển. Đồng thời, đây cũng là nơi dừng chân nghỉ ngơi của tàu thuyền qua lại.

Tại đây ông đã vớt và chôn cất cẩn thận thân y Thái Tử Nam Tống (sau này cũng được thờ chung tại đền).

Có tài liệu cho rằng, Ngài cứu sống 3 mẹ con mẫu Cờn (Dương Quý Phi Thái Hậu). Khi đó, nếu nộp họ cho quan thì sẽ phải làm nô tì, còn để họ lang thang vất vưởng ngoài kia thì sẽ gặp đau khổ. Chi bằng tục huyền lấy họ để nương tựa lẫn nhau nhưng ngài lại bị cự tuyệt, buồn chán dẫn đến quyên sinh. Sau khi ngài hóa, Mẫu đọc di thư ngài để lại và hiểu rõ được sự việc nên quyết định ra biển Cờn thác hóa. Hai người con cũng theo mẹ ra biển và hóa tại đây.

Tích dân gian thứ ba

Theo sách Ô Châu Cận Lục - Nhà Xuất bản Chính Trị Quốc Gia thì Thần tích về Quan Hoàng Chín như sau:

"Đời vua Hùng thứ 13, Hoàng hậu chỉ sinh hai công chúa chứ chưa có hoàng tử nối ngôi. Quần thần thấy Vua đã già mà chưa có người nối ngôi, bèn tâu hãy lập con trai của thứ phi làm thái tử. Vua đáp "Trẫm vừa nghe hậu nói có thai, vậy hãy đợi xem sao "

Thứ phi nghe vậy sợ rằng con mình không được lập, âm mưu mua chuộc bà đỡ nhờ bà giết con trai của Hoàng Hậu nếu được sinh ra. Bà đỡ trả lời : "Nghề của tôi là cứu người chứ sao lại giết ? Nay tôi có mẹo khác làm đứa bé thành ái nam ái nữ, tất nó không được lập".

Đến kỳ hoàng hậu khai hoa, bà đỡ lén lấy lá trong rừng xoa vào bộ phận sinh dục đứa bé. Nhà Vua tuần thú trở về hỏi hậu sinh trai hay gái ? Kẻ tả hữu đáp: "Sinh trai, nhưng chỗ âm dương không đầy đủ". Hậu nghe được liền nói : "Ta vốn sinh trai, hình hài rõ ràng, nay lại không đủ, tất là do âm mưu của thứ phi". Từ đó hậu trở nên cau có gắt gỏng. Vua nổi giận hạ lệnh đẩy mẹ con Hoàng Hậu ra ngoài đảo xa, đến cửa Cờn thì mất.

Ngư dân ngủ đêm ở đấy được thần báo mộng rằng "Ta là vua nước Nam, bị kẻ khác rắp tâm hãm hại. Thượng đế thương mẹ con ta nên đã phong làm thần rồi ". Dân chài khấn rằng "Như thần có linh thiêng, xin phù hộ cho đánh được nhiều cá, chúng tôi sẽ lập đền thờ". Quả như lời, ngư dân liền lập đền thờ. Đền rất linh hiển.

Chầu Văn Ông Hoàng Chín

Hương một triện lòng thành dâng tiến 

Cung thỉnh mời Ông Chín Cờn Môn 

Khâm thừa thượng đế chí tôn 

Sai Ông Hoàng Chín Cờn Môn giáng trần 

Trên chín bệ cao thâm võng cực 

Dưới bách thần mộ đức kinh luân 

Cù lao chín chữ quần thần 

Sinh ông Hoàng Chín kinh luân gồm tài 

Văn thơ phú sánh ngài Đỗ Lý 

Võ lược thao cái thế Tôn Ngô 

Cung tên mã thượng giang hồ 

Tuổi vừa đôi tám đăng khoa triều đình 

Bẩm sinh thành công minh chính trực 

Quyết về đời ra sức lược thao 

Gặp cơn sóng gió ba đào 

Mười hai cửa bể sớm chiều xông pha 

Cửa Cờn Môn dựng cờ soái lĩnh 

Lệnh ông truyền nghiêm chỉnh ba quân 

Quyết lòng vì nước vì dân 

Trấn an cửa bể dẹp quân bạo cường 

Ông mở đường dân an quốc thái 

Dùng phép màu cứu độ nhân sinh 

Muôn dân hưởng phúc an lành 

Nêu cao khí tiết oai danh muôn đời 

Nước dù cạn công người không cạn 

Đá dẫu mòn gương sáng còn soi 

Anh linh lưu dấu muôn đời 

Cửa quan rộng mở cứu người hữu nhân 

Ngẫm cơ tạo xoay vần sống thác 

Hãy tu đi rồi đẻ ngày mai 

Xưa nay sinh hoá ở đời 

Ông Hoàng giáng thế cứu người tồn sinh 

Phật hữu tình từ bi phổ độ 

Quyết lánh đường có có không không 

Làm nên thiên tứ đỉnh chung 

Cho người có đức có công đó mà 

Chữ tu dưỡng gương nga vằng vặc 

Bóng soi người hữu đức hữu nhân 

Lánh đường đạo tặc tham sân 

Tu nhân tích đức ngàn năm vẫn còn 

Đức nhân sánh càn khôn vũ trụ 

Công ơn người muôn thuở không phai 

Nhang thơm dâng trước tiền đài 

Nhớ ngày Ông Chín ra đời cứu dân 

Tiết trùng cửu quy thần hạc lánh 

Nhớ ơn ngài dâng cánh hương hoa 

Rượu quỳnh rót chén Đồ tô 

Chúc Hoàng muôn tuổi đề thơ hoạ vần .

Văn Ông Hoàng Chín Đề Thơ

Bút pháp tinh anh tửu nhập thần

Hoa khai quả kết vạn gia xuân

Tay tiên đề bút an Thiên hạ

Trăm họ âu ca cổ Thánh thần

“Vân ủng trùng sơn, sơn ủng vân

Giang tâm như kính thủy vô trần

Bồi hồi độc bộ Tây phong lĩnh

Giao vọng Nam thiên ức cố nhân”

Ngồi tựa khe suối gẩy cung đàn

Chạnh lòng nhớ tới ban tri loan

Tâm thơ Đỗ Phủ hồn theo gió

Gửi khách Tương Như khúc phượng hoàng

Thế sự cuộc cờ bày lại xóa

Nhân tình cạn chén mượn hơi men

Hỡi ai! Rượu sớm trà chưa tỉnh

Nặng gánh gươm đàn nợ nước non

Non sông ghi nhớ người anh kiệt

Cờn hải long lanh nước sóng vàng

Chín bệ có hay lòng sắt đá

Ba ngôi đâu tá tiết chiêu dương

Soi gươm kim cổ lòng man mác

Phú quý vinh hoa giấc mộng vàng

Hầu Ông Hoàng Chín

Ông Chín Cờn Môn thường rất ít ngự đồng. Thường chỉ có người ăn lộc, sát căn duyên hoặc về đền thỉnh ông thì ông mới se loan giá ngự.

Trang phục khi ngự đồng của ông là áo the màu đen, đầu đội khăn xếp đen, kiểu cách giống thầy đồ xưa. Sau đó ông làm thơ, viết chữ và ban phát tài lộc.

“Non sông ghi nhớ người anh kiệt 

Cờn hải long lanh nước sóng vàng

Chín bệ có hay lòng sắt đá

Ba ngôi đâu tá tiết chiêu dương”

Đền thờ Ông Hoàng Chín

Đền thờ ông Hoàng Chín tọa lạc ngoài cửa biển, nay là đường ra bãi Quỳnh Phương thuộc phường Quỳnh Phương, thị xã Hoàng Mai, Nghệ An. Nơi này còn có tên gọi là đền Cờn ngoài.

Ban đầu, có một đền Cờn xưa thờ chung Tứ Vị Vua Bà, Vua Tống Đế Bình cùng 3 vị tướng của ngài trên đỉnh núi. Nhưng do quan niệm “Nam nữ thụ thụ bất tương thân” nên đầu thế kỷ thứ 19, vua Gia Long đã chuyển cung thờ Vua Tống Đế Bính cùng ba tướng ra đền Cờn ngoài (Thờ cùng Hoàng Chín) cách chỗ cũ khoảng 1,5km. Đền Cờn cũ trở thành đền Cờn trong gọi là Đền Mẫu Cờn.

Phú Khánh
 

Blog này chia sẻ kiến thức về thực hành tín ngưỡng thờ mẫu tam phủ là di sản văn hoá phi vật thể được UNESCO công nhận năm 2016. Tín ngưỡng thờ Mẫu đi liền với dân tộc Việt Nam, truyền thống bao đời nay, đề cao chữ “Hiếu” và chữ “Kính”, đặc biệt thêm phần lễ nghĩa. Hiếu với Ông Bà Cha Mẹ, Kính là kính Thánh trọng Thầy.