Vua Cha Bát Hải Động Đình

Chúng ta cùng nhau mở lại trang sử của dân tộc Việt nam vào thời Vua Hùng thứ XVIII, cách chúng ta hơn 2000 năm để khám phá về 1 người anh hùng lưu danh là Vĩnh Công Đại Vương, Vua Cha Bát Hải Động đình được tôn thờ tại Đền Đồng Bằng.

Thần Tích

Vào thời Hùng Vương XVIII, Đất nước Văn Lang, Lạc Việt giữa buổi thịnh trị, Vua sáng tôi hiền, dân miền duyên hải còn rất thưa thớt, làm nghề chài lưới và nông tang. Ngày ấy, Sông Vĩnh cổ (Đồng Bằng, An Lễ) còn rất rộng, tương truyền lại còn có cả các loài thuỷ quái, thuồng luồng, giao long sinh sống. Dân đất Hoa Đào cư trú dọc bên sông, nghề chính là trồng dâu nuôi tằm, dệt vải và khai khẩn bãi bồi, canh tác nông nghiệp, kết hợp chài lưới đánh bắt tôm cá trên sông.

Khi Vua Hùng đã lên tuổi Kỳ lão mà vẫn chưa có con trai nối dõi. Vua rất phiền lòng, sinh hạ nhiều, nhưng chỉ còn lại 2 Công chúa:

  • Công chúa lớn là Tiên Dung, trời se duyên cùng Chử Đồng Tử, rồi cùng tu tiên biệt tích không về.
  • Công chúa nhỏ là Mỵ Nương, lấy Tản viên Sơn Thánh. Vua đã vài lần gợi ý trao Vương miện nhưng Sơn Thánh quyết không nhận, gặp những kỳ đất nước hữu sự, ngài về Triều giúp Vua Cha, yên sự lại về Tản viên tu đạo, chứ không màng quan tước. Chính vì thế, có nhiều thế lực nhòm ngó Ngai Vàng còn chưa có người kế vị. Các nước láng giềng ở Bắc phương, cùng lân bang Vạn Tượng, Ai Lao. cùng nung nấu ý đồ thôn tính Văn Lang - Lạc Việt.

Lạc Long Quân từ ngày trao quyền cho con là Hùng Vương trị vì đất nước, trở về biển Đông, nhưng vẫn thường theo dõi rất sát thể sự Lạc Việt, trước những hiểm hoạ có thể sảy ra, Long Quân lấy làm lo lắng không yên.

Bấy giờ, Lạc Long Quân đang sống cùng người ái thiếp (tương truyền bà chính là Ngọc nữ trong Cung Tây Vương Mẫu, lỡ tay đánh vỡ chén Ngọc lưu lỵ, nên bị đày xuống Đông hải) Bà sinh cho Long Vương 1 người con trai. Đó là Thái Tử Giao Long tài đức siêu quần, khi Hà bá sông Cái vì không lấy được Mỵ Nương, nên tức tối đại tác thuỷ hoạ cho dân, Long Vương sai Thái Tử giúp Sơn Thánh dẹp yên và bắt Thuỷ tinh về trị tội.

Sự lo lắng của Long Quân về nguy cơ Lạc Việt làm cho mẹ con Thái Tử cũng trăn trở không yên, nhưng sợ can thiệp trực tiếp sẽ phạm cơ Trời, nên cứ than thở bất an, sầu muộn. Rồi Thái Tử cũng trình lên Vua Cha được 1 kế sách trọn vẹn, đó là cho phép chàng và hai em thác sinh thành kiếp người trần, là con dân nước Lạc Việt, chỉ có thể, chàng mới giúp các bậc huynh trưởng giữ lấy giang sơn mà không phạm luật Trời.

Vì tình thế cấp bách, Lạc Long Quân đành y theo kế của con. Cả Long vương và Ngọc thiếp cùng phối hợp thực hiện kế sách này để Thái Tử được thác sinh chính thức thành con dân Lạc Việt. Và thế là trên bờ sông Vĩnh, thuộc Hoa Đào, trấn Sơn Nam, quận Giao Chỉ xuất hiện 1 cô gái vị thành niên, không cha không mẹ, mò cua bắt ốc bên sông, ai hỏi thì xưng là người phương Bắc phiêu bạt tới đất này (tương truyền, đó chính là hoá thân của bà Thiếp Ngọc nữ của Long Quân, tạo cơ sở cho Thái tử đầu thai thành dân đất Việt).

Sử cổ ghi rõ, ngày ấy có 2 vợ chồng (Ông Phạm Túc, Bà Trần Thị) là người xã An Cổ (Thái Bình) đã lớn tuổi, sống phúc hậu mà không có con. Một lần, họ ngược dòng đánh cá đến xã Hoa Đào và tình cờ gặp cô gái nhỏ bên sông Vĩnh, ông bà đón cô gái về nuôi tại An Cổ, đặt tên là Quý Nương.

Mấy năm sau, khi tròn 18 tuổi, Quý Nương rất xinh đẹp, đoan trang. Nhưng không nhận lời cầu hôn của ai cả. Ông bà Phạm Túc bị bệnh rồi lần lượt qua đời. Quý Nương lưu lại An Cổ để hương khói báo hiếu cho bố mẹ nuôi.

Một lần Quý Nương ra cửa sông tắm, đang trời yên biển lặng, bỗng sóng gió nổi lên dữ dội, rồi thấp thoáng bóng 1 con Hoàng Long hiện lên quấn chặt lấy nàng. Một lát sau, khi sóng gió qua đi, Quý Nương thấy mình nằm trên bãi sông. 

Một thời gian sau, bỗng thấy mình có thai, Quý Nương rời An Cổ trở về quê xã Hoa Đào sinh sống. 

Sử cổ ghi rõ, Bà có thai đúng 13 tháng, vào đúng đêm ngày mồng 10 tháng giêng Bà sinh ra 1 cái bọc, giữa ánh hào quang phát sáng rực. Quý Nương sợ hãi, ôm bọc thai thả xuống sông Vĩnh. 

Cũng đêm ấy, có 1 người tên là Nguyễn Minh cất vó bên sông. Ông thấy cái bọc đã được mình cầm vứt ra nhiều lần mà cứ cố tình trôi vào vó, cực chẳng đã ông đành rạch bọc ra ánh sáng phát chói loà, ông kinh hãi thấy từ trong bọc chui ra 3 con Hoàng Xà, đầu Rồng mình rắn. 

  • Con lớn nhất (Thái Tử giao Long) vượt sông lên bờ, chui vào náu thân trong 1 giếng nước.

Truyền Thuyết Đền Đồng Bằng bây giờ nói rằng

Ông kéo vó khi rạch bọc, lưỡi dao đã vô tình làm đứt 1 thuỳ đuôi của con Hoàng Xà lớn, vì thế xưa kia các bản Hội về cúng mô hình Giao long tại Đền Đồng Bằng, bao giờ cũng làm vát 1 thuỳ đuôi là theo tích này. Còn 2 Hoàng Xà nhỏ, bơi xuôi theo dòng nước chảy dọc sông Vĩnh, 1 con dạt vào xã Thanh Đô (Thái Ninh), con nhỏ nhất bơi đến tận xã An Cổ. 

Cũng đêm ấy, dân xã Hoa Đào thấy trời nổi sấm rền, rồi từ trên không trung có tiếng nói vang động:

"Ta là con của Long Quân, khi có giặc sẽ giúp Vua Hùng diệt giặc" 

Hôm sau, dân bản làng đến bên giếng cạn đắp ụ đất, tạm lấy lá chuối ghi chữ đánh dấu, rồi sau lập thành Miếu thờ, từ đó hương khói cầu “phong đăng hoà cốc” thấy rất linh nghiệm.

Vua Hùng ngày ấy đã già, lại không con trai nối dõi. Vua thường buồn bã, hay đau yếu làm lo lắng cho trăm quan triều chính. Có nhiều thể lực trong nội bộ Bách Việt, muốn nhòm ngó Ngai vàng Lạc Việt như bộ tộc Âu Việt, do Thục Vương cai quản (nguyên gốc xưa là người Trung Nguyên di cư xuống phía nam, từ lâu đã thành dân Bách Việt và cũng chính là phụ thân của Thục Phán).

Khi Mỵ Nương đến tuổi lấy chồng, nhan sắc tuyệt vời, phong tư đoan chính. Thục Vương mê lắm, rất muốn cưới về làm thiếp. Vua Hùng cũng có ý ưng thuận, nhưng các Lạc tướng can rằng:

“Thục Vương từ lâu nhòm ngó nước Văn Lang của dân Lạc Việt ta, giờ Vua lại gả Mỵ Nương cho y, khác gì đưa hổ vào tận trong nhà”

Vì thế Vua Hùng không gả con cho, rồi lại đem gả cho Sơn Tinh. Thục Vương giận lắm, thề dù có phải đến đời con sau này cũng sẽ quyết thôn tính bằng được Lạc Việt. 

Khoảng vài năm sau thấy thời cơ đã đến, các nước lân bang như Ai lao, Vạn tượng, Chiêm thành hợp sức cùng quân phương Bắc, nhân Vua Hùng già yếu đã hẹn phối hợp xâm lấn nhằm thôn tính Lạc Việt.

Được 1 số bộ lạc trong Bách Việt như Âu Việt, Mân Việt, Nam Việt nội ứng, cùng chỉnh sức "tinh binh bách vạn", tuyển “Phì mã tam thiên", tức là tập hợp hàng trăm vạn tinh binh, ngựa khoẻ. Quân đường bộ chia làm 5 đạo, hẹn đợi cánh quân đường thuỷ từ phương Bắc xuống, khi nào quân phương Bắc đã phong toả 8 cửa biển Lạc Việt, thì cả thuỷ, lục các đạo đều cùng 1 lúc tiến quân. Thanh thế của giặc chấn động cả biên thuỳ, thư cấp báo đưa tin giặc dữ truyền về Kinh đô "1 ngày đến 5 lượt".

Vua Hùng rất lo lắng trước thế giặc quá mạnh, liền cho người đi mời Sơn Thánh về Kinh hiến kế phá giặc. Sơn Thánh lập tức từ Tản Viên hồi Triều, Hùng vương ngạc nhiên thấy Sơn Thánh ung dung thư thái. Vua Hùng trách:

"Một ngày có đến 5 tin hoả tốc cấp báo, thế giặc như lũ bão, chẳng lẽ Khanh không lo sao?" 

Sơn Thánh tâu rằng:

"Trải qua 17 đời Vua Hùng, những bậc quân vương đều là Thánh hiền, việc nghĩa nhân đã dày và nhuần thẩm, thương dân như con, ân tình ghi vào cốt tuỷ, đó là 1 thế mạnh. Nước Văn Lang, Lạc Việt ta hiện nay đang quốc phú, binh cường, bệ hạ uy đức lan xa đến hải ngoại, thấu đến trời đất, vì thế Trời đã "giáng anh tài" xuống làm dân đất Việt, để mà hộ quốc cứu dân đó thôi!". 

Vua Hùng hỏi, Sơn Thánh thưa:

"Đó là Long cung Hoàng Thái Tử đã thác sinh, đang náu ở xã Hoa Đào, huyện Sơn Nam, có 3 anh em khí độ vượt nhân, kinh luân đứng đầu kim cổ, văn võ kiêm tài. Trời lại cho giáng trần thêm mấy anh tài hiện đang làm con dân Lạc Việt, có thể đảm đương việc cự địch xâm lăng đường biển. Nước Việt ta lại còn có "sơn thuỷ bách Thần" từ ngày lập nước rất linh ứng hay hiển linh để phù trợ. Bởi vậy Đức Vua chẳng phải quá lo, kẻ địch dấy binh vô đạo, tất sẽ thủ bại. Bệ hạ nên cử Thái Tử Long cung trấn giữ và đánh giặc tại các "giang môn, yếu hải", còn thần nguyện đích thân tiên phong cự địch tại các cánh đường bộ. Thần đồ rằng chỉ vài hôm là giặc tan". 

Vua Hùng nghe nói cả mừng, lập tức lệnh lập Đàn cầu Trời ứng trợ, tuần hương vừa tàn, thì Thanh Y Tiên Ông lai giáng, mách Vua cho người về xã Hoa Đào triệu, sẽ có dị nhân đánh tan giặc biển (trích dịch Văn tự Hán Nôm cổ về Đào Động, hiện lưu giữ tại Viện TT KH-XH Việt Nam).

Tương truyền ngay ngày tuyển mộ đầu tiên, Vĩnh Công đã chọn được 3 tướng là Quan Lớn Đệ Nhất Thượng Thiên, Quan Lớn Đệ Tam Thoải Phủ và Quan Đệ Tứ. Trai tráng duyên hải kéo đến đầu quân rất đông, nhưng đến trưa ngày thứ 10 theo hẹn, vẫn thiếu 1 tướng. Vĩnh Công lập đàn cầu, Trời điều Tam Thái Tử xuống đầu quân, ngài giáng xuống Bảo Hà (Lào Cai), tương truyền thấy một tiếng sét dữ dội tại đó, rồi một luồng hào quang bay về nơi Vĩnh Công tuyển tướng, tụ thành 1 chàng trai tuấn tú xin ứng tuyển, đó chính là Quan Điều Thất.

 Sau khi chọn được quan Điều Thất, đủ số 10 tướng, Vĩnh Công còn chọn được 1 mưu sĩ tài ba, quê ở Nuồi (Tứ Kỳ, Hải Dương). Vĩnh Công còn lựa được 28 vị Nội tướng tài ba.

Để thế hiện tình nghĩa ruột thịt cùng xả thân vì xã tắc, không câu nệ danh vọng, Vĩnh Công tuỳ tuổi mà phân thứ bậc các tướng. Trên 2 mũi tấn công chủ yếu bằng đường thuỷ của giặc phương Bắc là cửa sông Cái (sông Hồng) và cửa sông Bạch Đằng. Vĩnh Công cùng Quan Lớn Đệ Nhất Thượng Thiên chặn giặc ở cửa sông Cái, Quan Lớn Đệ Tam Thoải Phủ cùng Quân sư Nuồi và Quan Lớn Đệ Ngũ Tuần Tranh chặn giặc tại cửa sông Bạch Đằng, Quan Lớn Điều Thất phụ trách ứng chiến và phối hợp tác chiến cùng các cánh quân chặn giặc đường bộ của Sơn Thánh, các vị Quan Lớn khác đều được phân công đánh giặc trên 6 cửa biển khác của Nước Nam.

Đúng hẹn 3 ngày, Vĩnh Công cùng tướng sĩ đánh tan giặc dữ trên cả 8 cửa biển. Thấy cánh quân đường thuỷ hùng mạnh của phương Bắc bị đại bại, nhiều cánh quân xâm lược đường bộ do các bộ lạc của Bách Việt, được sự giúp sức của các nước Ai Lao, Vạn Tượng...đang cố quyết chiến cùng quân Lạc Việt do Sơn thánh chỉ huy, nghe tin đều hoảng sợ, vội vã rút nhanh về nước.

Đất nước trở lại thanh bình, Vua Hùng triệu Vĩnh Công về Triều, phong là:

"Vĩnh Công Nhạc Phủ Thượng Đẳng Thần"

Lại có ý muốn lưu ở Kinh đô giúp việc Triều chính. Vĩnh Công xin được về quê để trông nom thân mẫu, khai khẩn vùng duyên hải, chiêu dân lập ấp, dạy dân nghề trồng dâu nuôi tằm, dệt vải, đồng thời giúp Vua Hùng giữ yên 8 cửa biển Lạc Việt.

Mười tướng theo Vĩnh Công về xã Hoa Đào . Quan Điều Thất về Trời ngay sau khi thắng giặc, Vĩnh Công thương xót cho lập ban thờ ngay tại dinh Công đồng.

Quan Đệ Lớn Tam Thoải Phủ được phân công giữ yên vùng duyên hải từ sông Cái lên hết biên giới biển phía bắc Lạc Việt.

Quan Lớn Đệ Thập được tỵ nhậm tại Cửu Chân, Quan Lớn Đệ Tứ được phân công khai khẩn vùng bãi Bắc Sơn Nam. Có 5 vị Nội tướng được Vĩnh Công giao sở nhiệm khai khẩn chăm dân lập thôn tại xã Hoa Đào.

Vĩnh Công lấy 10 rương vàng được Vua Hùng ban thưởng để chia cho dân bản làng làm vốn canh tác. Miền duyên hải Lạc Việt từ đó dân cư ngày càng đông đúc, phồn thịnh. Vua Hùng trao Vĩnh Công quản lý miền duyên hải Lạc Việt, lấy tên là Tây Đô.

Tương truyền định kỳ hàng năm, nhân ngày đại thắng quân phương Bắc trên 8 cửa biển, Vĩnh Công triệu chư tướng về tề tựu tại xã Hoa Đào trang. Trong những kỳ hội tụ này, Vĩnh Công mở tiệc khao thưởng, cùng chư tướng đàm đạo về tình hình, vạch kế sách khai khẩn, chăm dân và giữ yên miền duyên hải theo uỷ thác của Vua Hùng. Trong những ngày vui này, Vĩnh Công thường tổ chức thi bơi thuyền, giữa đội thuyền bản làng và thuyền của các tướng, thuyền của quân sư Nuồi, để ôn lại chiến thắng, tập dượt phòng thủ và luyện quân sẵn sàng ứng phó mọi biến cố.

Vĩnh Công còn cho tập hợp các làn điệu dân ca trong vùng, dạy cách hát ứng vận đối đáp để thi hát trong các đêm Hội. Công đức của Vĩnh Công rất lớn, Vua Hùng rất nể trọng. Dân xã Hoa Đào cũng như cả vùng duyên hải coi Ngài như cha. Một số năm trôi qua, một hôm Vĩnh Công mời hương lão đến dinh thất của mình nói rằng:

"Ta cùng các vị là dân lân hương ấp, ăn ở với nhau như tình ruột thịt, nay Ta sắp phải vâng mệnh về chầu Vua Cha Lạc Long quân. Nếu có nhớ đến Ta, thì nhà Ta đây là miếu sở, ngày Ta đi sẽ là ngày giỗ..." 

Tất cả hương lão có mặt bùi ngùi, nức nở. Rồi bỗng thấy trời đất tối sầm, sấm chớp gió mưa đột khởi dữ dội. 

Ngày 25 tháng 8 (ÂL ) niên Bính Dần, trời quang mây tạnh, mọi người chỉ còn thấy y áo của Vĩnh Công . Dân bản làng lập tức dâng biểu về Kinh, Vua Hùng thương xót, ban phong mỹ hiệu:

"Trấn Tây An Tam Kỳ Linh Ứng Đại Vương"

Cho tu sửa dinh thất thành đền thờ tự, cho lập "điền tự" để hương hoả cho Vĩnh Công mãi mãi. Vua Hùng trao cho các tướng của Vĩnh Công tiếp tục sự nghiệp tại miền duyên hải Lạc Việt. Từ đó, nhân ngày giỗ, các tướng lại tề tựu tại xã Hoa Đào , dâng hương cho Vĩnh Công và tổ chức các hình thức kỷ niệm ngày đại thắng như trước đây.

Tương truyền, các tướng của Vĩnh Công đều là những anh hùng cái thế, sinh tử vì Lạc Việt và bảo vệ Vua Hùng cho tới ngày Vua Hùng tuẫn tiết, nước Văn Lang, Lạc Việt sang trang sử mới, gọi là nước Âu Lạc.

Các tướng của Vĩnh Công sau đó, người hoá thần, người tử trận trong chiến đấu bảo vệ đất nước Văn Lang, họ đều được lập đền thờ, được các triều đại sau sắc phong tôn vinh, kính trọng. 

Đền thờ Vĩnh Công Đại Vương , Vua Cha Bát Hải Động Đình từ xa xưa đã nổi tiếng linh ứng. Các triều đại sau này như Đinh, Lê, Lý, Trần, Lê, Nguyễn đều tái sắc phong cho ngài. Vĩnh Công được coi là Thượng Đẳng Thần của đất Lạc Việt. Hội tháng 8 âm lịch tại Đền, hội tụ thập phương dân Việt về chiêm bái lễ cầu.

Câu thành ngữ dân gian:

“Tháng Tám Giỗ Cha, Tháng BaGiỗ Mẹ”

Chính là để chỉ hội tháng 8 ở Đền Đồng Bằng và hội tháng 3 ở Phủ Dày.

Sắc Phong

Niên hiệu Vĩnh Hựu năm thứ 2 đời vua Lê Ý Tông Ngày 01 Tháng  11 Âm Lịch Năm 1726

Hoàng Triều Vĩnh Hựu nhị niên, trọng Đông nguyệt, sơ nhật.


Sắc: Gia phong: Trấn Tây an Tam kỳ linh ứng Đại Vương Thượng đẳng Quốc tế (Được tổ chức tế lễ theo Nghi thức dành cho những bậc Thần linh được tôn trọng bậc nhất quốc gia)


Phóng chỉ ban hồi dữ cấp tiền tứ bách quán (Truyền Chỉ dụ về tận nơi, cùng số tiền được Triều đình ban cấp là 100 quan). Hứa Đào Động trang ngưỡng Thần hiệu, cập hồi trùng tu miếu điện, dĩ phụng chi lưu truyền hương hoả, dữ quốc tế vĩnh thời huân công hỹ. (Hẹn cho Đào Động trang tổ chức điện thờ phụng và lưu truyền hương hoả, để cả nước về tế lễ huân công của Thần đến mãi mãi).

Hàn lâm Viện Đông các Đại học sỹ Nguyễn Binh - Phụng soạn.

Bát phẩm Lại bộ - thần: Nguyễn Hiền - Phụng sao. 

Năm Chương Thánh Gia Khánh thứ hai, đời Vua Lý Thánh Tông, ngày tốt, tiết xuân tháng 2 âm lịch, năm 1060)

Chương Thánh tôn hiệu đệ nhị niên, trọng xuân, cát nhật.

Sơn Nam Hạ trấn, Phụ Phượng quận, Đào Động trang

Cổ điện phụng sự: Tam Kỳ linh ứng Vĩnh Công Đại Vương Bát Hải Động Đình.

Thị thượng tôn cổ Thần hộ Quốc tý dân, thập phương ngưỡng vọng (Là vị Thần từ đời cổ được tôn trọng bậc nhất, đã có công Hộ quốc, che chở cho dân, mà mọi miền đất Việt đều ngưỡng vọng)

Vạn cổ chí kim thế truyền linh ứng, đa Triều tái phong mỹ tự (Từ cổ đến nay, được đời truyền tụng là linh ứng, nhiều Triều đại đã có Sắc gia phong với những lời ca ngợi đẹp đẽ) 

Tứ kim gia phong (Nay ban chiếu gia phong là)


Thượng đẳng Tôn Thần Hộ quốc tí dân, vạn đại linh ứng

(Vị Thần được tôn trọng bậc nhất, đã có công hộ Quốc, che chở cho dân, vạn năm linh ứng)
Chuẩn phụng sự chính lệ (cho phép phụng sự, tế lễ theo chính lệ)

Trợ Thần tồn linh bảo ngã lê dân chí vĩnh.

Khâm thử! 

(Để Thần tiếp tục linh ứng bảo vệ cho dân ta mãi mãi. Y lệnh!) 

Năm Thiên Đức thứ hai, đời Vua Lý Nam Đế, Ngày 15 tháng 8 âm năm 548

Thiên Đức tôn hiệu đệ ngũ niên, trung thu, vọng nhật

Lạc Việt quốc, Hùng Triều đệ thập bát diệp, sắc phong thuỷ Thần phát tích Hoa Đào trang, sơn Nam Hạ trấn.

(Thời vua Hùng đời thứ 18, nước Lạc Việt, đã sắc phong cho vị Thuỷ Thần phát tích tại Hoa Đào trang, Trấn Sơn Nam Hạ) 

Sắc phong (Vua Hùng sắc phong là) 

Đệ nhất lương thần Vĩnh Công hộ quốc tí dân (Vị Thần có đức lớn bậc nhất là Vĩnh Công, đã có công hộ quốc, che chở cho dân ta) 

Hoá Thần Bính Dần niên, bát nguyệt, nhị thập ngũ nhật, sở tại Hoa Đào trang, Sơn Nam Hạ trấn, bộ Thang Truyền. Niệm đại công sinh thời hùng lược quảng đức phù Quốc. an dân. Gia phong: Trấn Tây an Tam kỳ linh ứng đại vương, thượng đăng quốc tế. Phóng chỉ ban hồi dữ. Hứa Hoa Đào trang ngưỡng Thần hiệu, trùng tu miếu điện, dĩ cấn phụng sự chi lưu truyền hương hoả vạn thế, đắc Thần sở tiếp linh ứng phù hộ dân Việt bất hoại.


Khâm dĩ !

(Vị thuỷ Thần hoá Thần ngày 25 tháng tám năm Bính Dần, tịch tại Hoa Đào trang, Sơn Nam Hạ trấn, bộ Thang Truyền. Nhớ đến đại công khi sinh thời của Vĩnh Công hùng lược quảng đức, hộ quốc an dân, Vua Hùng gia phong: Trấn Tây an Tam kỳ linh ứng Đại Vương, cho tổ chức tế lễ theo quốc lễ. Vua Hùng phóng chi ban, hẹn cho Hoa Đào trang tổ chức đón rước Thần hiệu, trùng tu miếu điện, phụng sự Thần nghiêm cẩn và lưu truyền hương hoả vạn đời, để Vĩnh Công mãi linh ứng phù hộ cho dân)

Thư lại Lễ bộ Lý triều Chương thánh Gia Khánh nhị niên phụng soạn (15 tháng 8 năm 548). Tú tài Giáo học Đinh Đăng Quát cân sao. Cấm cung Bát Hải động Đình linh từ, chính nguyệt, sơ thập nhật, Quý Dậu niên (chép lại ngày mồng 10 tháng giêng năm 1933). 

Khải Định cửu niên, thất nguyệt, nhị thập ngũ nhật (ngày 25/7/1924)

Sắc! Thái Bình tỉnh, Phụ Dực huyện, Vọng lỗ tổng, Đào Động xã. Phụng sự Trấn tây an nam, tam kỳ linh ứng tôn thần.

Nẫm trứ linh ứng, tứ kim phi thừa. Cảnh mệnh miễn niệm thần hưu, trứ phong vi dực bảo Trung hưng linh phù chi thần, chuẩn kỳ phụng sự, thứ cơ thần kỳ, tương hữu bảo ngã lê dân. 

Khâm tại!

Đền Thờ Vua Cha Bát Hải Động Đình

Đền Đồng Bằng

Tọa lạc tại thôn Đồng Bằng, xã An Lễ, huyện Quỳnh Phụ, tỉnh Thái Bình. Đền Đồng Bằng là một bảo tàng mỹ thuật điêu khắc gỗ tuyệt đẹp, một điểm du lịch hấp dẫn của tỉnh Thái Bình.

Xuôi đường 10 đi Hải Phòng, dừng chân bên cầu Vật, du khách sẽ bị cuốn hút trước công trình kiến trúc uy nghi, lộng lấy đứng khiêm nhường bên dòng sông Cổ đầy ắp huyền thoại. Nơi đây còn âm vang khí thể hào hùng oanh liệt của quốc gia đại Việt chống giặc Nguyên Mông. Diện súy Phạm Ngũ Lão đã bái yết cửa đền trước khi xuất trận và lưu bút đền thờ nơi "Tứ cổ cảnh Lý Triều" này.

Đền Đồng Bằng tương truyền thờ Đức Vua cha Bát Hải được xây dựng từ thời Vua Hùng XVIII thờ đức Vua cha Bát Hải Động Đình, người có công lớn trong việc bình giặc Thục giữ yên bờ cõi, đưa con cháu Lạc Hồng vào thiên niên kỷ thứ nhất. Quần thể di tích mang trong mình một truyền thuyết về nơi khai sinh và hóa thánh của 8 vị Thánh có công chống giặc cứu nước. Để tưởng nhớ công đức của các vị nhân dân đã dựng đền và tổ chức lễ hội vào tháng 8 âm lịch hàng năm.

Tục truyền, đền được khởi dựng khá sớm, trải qua các triều đại, thiên nhiên, giặc giã hoành triệt, đền được tu tạo nhiều lần. Công trình kiến trúc hiện nay có niên đại Khải Định năm thứ 10 (1926). Toạ lạc trên một diện tích khoảng 6.000m, toàn bộ công trình xây dựng của đền Đồng Bằng gồm có 13 toà, 66 gian, kết cấu theo kiểu tiền nhị hậu đỉnh, liên hoàn khép kín, rất nguy nga bề thế. Các mảng kiến trúc của công trình rất mềm mại, hài hoà với các nét chạm trổ tinh vi, hàng trăm câu đối, đại tự, cuốn thư sơn son thếp vàng với các chủ đề về tứ qui, tứ linh, hiện thực thiên nhiên vừa thần thoại vừa huyền ảo nhưng cũng rất sống động và đời thường.

Có thể nói, đền Đồng Bằng mang đậm phong cách kiến trúc truyền thống trong văn hóa làng xã Bắc Bộ nhưng lại ảnh hưởng bởi kiến trúc Huế những năm đầu thế kỷ. Đó là nghệ thuật ghép gốm và mái tứ diện chồng diêm, gia tăng vẻ đẹp mê hồn của ngôi đền độc nhất vô nhị trên vùng đất này. 

Cổng đền Đông Môn Đại, Tây Môn, Tiền Môn được coi là hoành tráng nhất Việt Nam. Phía trước cổng đền có hồ bán nguyệt, mặt hồ rộng, có cống thoát nước về phía hạ lưu rất khoa học. Ngoài ra đền Đồng Bằng còn lưu giữ được nhiều kỷ vật quý, tập trung vào đời Lý và trước đời Lý.

Trải nhiều thế kỷ, đền đã được tôn tạo nhiều lần. Sự độc đáo trong hoa văn qua trang trí cùng những hiện vật quý từ thời Lý và trước thời Lý còn được lưu giữ, đền Đồng Bằng xứng đáng với danh hiệu bảo tàng mỹ thuật điêu khắc gỗ. Đền được xếp hạng di tich lịch sử cấp Quốc gia.

Đền Mẫu Sinh 

Thuộc quần thể di tich đền Đồng Bằng, nơi thờ Đức Mẫu Quý Nương, người mẹ đã sinh ra Vua Cha Bát Hải Động Đình. Tương truyền thì từ xa xưa đền Mẫu Sinh được xây dựng trước cả đến thờ Vua Cha Bát Hải Động Đình.

Tương truyền trong thời kỳ chống quân Nguyên Mông, Phạm Ngũ Lão cùng với Hưng Đạo Đại Vương đã ghé thăm đền Mẫu Sinh và đề một bài thơ, hiện nay bài thờ vẫn còn lưu lại ở đền.

Hàng năm đền tổ chức ngày tiệc cho Mẫu Quý Nương vào ngày 15 tháng 3 âm lịch.

KẾT LUẬN

Vua Cha Bát Hải Động Đình là vị Vua, vị anh hùng của dân tộc Việt Nam. Với thần tích tam kỳ linh ứng giúp Vua Hùng. 

Phú Khánh
 

Blog này chia sẻ kiến thức về thực hành tín ngưỡng thờ mẫu tam phủ là di sản văn hoá phi vật thể được UNESCO công nhận năm 2016. Tín ngưỡng thờ Mẫu đi liền với dân tộc Việt Nam, truyền thống bao đời nay, đề cao chữ “Hiếu” và chữ “Kính”, đặc biệt thêm phần lễ nghĩa. Hiếu với Ông Bà Cha Mẹ, Kính là kính Thánh trọng Thầy.

Click Here to Leave a Comment Below 0 comments

Leave a Reply: